Nội dung text: Đề tài Tác động của việc điều hành lãi suất của NHTW hiện nay tới huy động vốn của các doanh nghiệp Việt NamĐề tài: Tác động của việc điều hành lãi
suất của NHTW hiện nay tới huy động
vốn của các doanh nghiệp VN
Các thành viên:
1. Đào Thị Khánh Hòa CQ528275
2. Phạm Phương Thảo CQ 528672
3. Nguyễn Đình Nam CQ532572
4. Nguyễn Thị Thùy Dung CQ528113
5. Nguyễn Thị Kim Chi CQ528070
6. Hà Thị Dung CQ510650
7. Nguyễn Thị Mai Anh CQ530106
8. Nguyễn Ngọc Sơn Tùng CQ511056
9. Nguyễn Thị Hoài Thương CQ535066
10. Phạm Thị Thu Trang CQ535031
11.1. Tổng quan vốn
1.1.1 Khái niệm vốn
Theo sự phát triển của lịch sử, các quan điểm về vốn xuất hiện và ngày
càng hoàn thiện, tiêu biểu có các cách hiểu về vốn như sau của một số nhà kinh tế
học thuộc các trường phái kinh tế khác nhau.
Theo một số nhà tài chính thì vốn là tổng số tiền do những người có cổ
phần trong công ty đóng góp và họ nhận được phần thu nhập chia cho các chứng
khoán của công ty. Như vậy, các nhà tài chính đã chú ý đến mặt tài chính của vốn,
làm rõ được nguồn vốn cơ bản của doanh nghiệp đồng thời cho các nhà đầu tư thấy
được lợi ích của việc đầu tư, khuyến khích họ tăng cường đầu tư vào mở rộng và
phát triển sản xuất.
Theo khái niệm trong giáo trình Tài chính doanh nghiệp của Trường Đại
học Kinh tế quốc dân thì khái niệm về vốn được chia thành hai phần: Tư bản
(Capital) là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Vốn được quan tâm đến khía cạnh giá
trị nào đó của nó mà thôi. Bảng cân đối kế toán phản ánh tình hình tài chính của
một doanh nghiệp tại một thời điểm . Vốn được nhà doanh nghiệp dùng để đầu tư
vào tài sản của mình. Nguồn vốn là những nguồn được huy động từ đâu. Tài sản
thể hiện quyết định đầu tư của nhà doanh nghiệp; Còn về bảng cân đối phản ánh
tổng dự trữ của bản thân doanh nghiệp dẫn đến doanh nghiệp có dự trữ tiền để mua
hàng hoá và dịch vụ rồi sản xuất và chuyển hoá, dịch vụ đó thàng sản phẩm cuối
cùng cho đến khi dự trữ hàng hoá hoặc tiền thay đổi đó sẽ có một dòng tiền hay
hàng hoá đi ra đó là hiện tượng xuất quỹ, còn khi xuất hàng hoá ra thì doanh
nghiệp sẽ thu về dòng tiền (phản ánh nhập quỹ và biểu hiện cân đối của doanh
nghiệp là ngân quỹ làm cân đối dòng tiền trong doanh nghiệp).
Một số quan niệm về vốn ở trên tiếp cận dưới những góc độ nghiên cứu
khác nhau, trong những điều kiện lịch sử khác nhau. Vì vây, để đáp ứng đầy đủ
yêu cầu về hạch toán và quản lý vốn trong cơ chế thị trường hiện nay, có thể khái
quát vốn là một phần thu nhập quốc dân dưới dạng vật chất và tài sản chính được
2các cá nhân, tổ chức bỏ ra để tiến hành kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi
nhuận.
1.1.2 Các đặc trưng cơ bản của vốn
Vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định. Có nghĩa là vốn được biểu
hiện bằng giá trị của tài sản hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp.
Vốn phải vận động sinh lời, đạt được mục tiêu kinh doanh.
Vốn phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhât định mới có thể phát huy
tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Vốn có giá trị về mặt thời gian. Điều này rất có ý nghĩa khi bỏ vốn vào đầu tư
và tính hiệu quả sử dụng của đồng vốn.
Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định, không thể có đồng vốn vô chủ và
không có ai quản lý.
Vốn được quan niệm như một hàng hóa và là một hàng hoá đặc biệt có thể mua
bán quyền sử dụng vốn trên thị trường vốn, thị trường tài chính.
Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền của các tài sản hữu hình ( bằng phát minh
sáng chế, các bí quyết công nghệ, vị trí kinh doanh, lợi thế trong sản xuất )
1.1.3 Phân loại vốn.
1.1.3.1 Căn cứ theo nguồn hình thành vốn.
Vốn chủ sở hữu:
Vốn chủ sở hữu là số vốn góp do chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng góp. Số
vốn này không phải là một khoản nợ, doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán,
không phải trả lãi suất. Tuy nhiên, lợi nhuận thu được do kinh doanh có lãi của
doanh nghiệp đẽ được chia cho các cổ đông theo tỷ lệ phần vốn góp cho mình. Tuỳ
theo loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu được hình thành theo các cách thức
khác nhau. Thông thường nguồn vốn này bao gồm vốn góp và lãi chưa phân phối.
3Vốn vay:
Vốn vay là khoản vốn đầu tư ngoài vốn pháp định được hình thành từ nguồn
đi vay, đi chiếm dụng của các tổ chức, đơn vị cá nhân và sau một thời gian nhất
định, doanh nghiệp phải hoàn trả cho nguời cho vay cả lãi và gốc. Phần vốn này
doanh nghiệp được sử dụng với những điều kiện nhất định (như thời gian sử dụng,
lãi suất, thế chấp...) nhưng không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Vốn vay
có hai loại là vốn vay ngắn hạn và vốn vay dài hạn.
1.1.3.2 Căn cứ theo thời gian huy động vốn.
Vốn thường xuyên.
Vốn thường xuyên là nguồn vốn có tính chất ổn định và dái hạn mà doanh
nghiệp có thể sử dụng để đầu tư vao ftài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu
động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động doanh nghiệp. Nguồn vốn này
bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn vay dài hạn của doanh nghiệp.
Vốn tạm thời.
Vốn tạm thời là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm) mà doanh số
có thể sử dụng để đap sứng nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm
các khoản vay ngắn hạn và các khoản chiếm dụng của bạn hàng.
1.1.3.3 Căn cứ theo công dụng kinh tế của vốn.
Vốn cố định.
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận đầu tư ứng trước về tài sản cố
định và tài sản đầu tư cơ bản, mà đặc điểm luân chuyển từng phần trong nhiều chu
kỳ sản xuất kinh doanh và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết
thời gian sử dụng.
Quy mô của vốn cố định quyết định quy mô của tài sản cố định nhưng các
đặc điểm của tài sản cố định lại ảnh hưởng đến sự vận động và công tác quản lý cố
4định. Muốn quản lý vốn cố định một cách hiệu quả thì phải quản lý sử dụng tài sản
cố định một cách hữu hiệu.
Để quản lý chặt chẽ, hữu hiệu tài sản cố định, có thể phân loại tài sản cố
định theo các tiêu thức sau:
Vốn lưu động.
Vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động và
tài sản lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được
thực hiện thường xuyên liên tục.
Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn, thường xuyên luân chuyển
trong quá trình kinh doanh. Tài sản lưu động tồn tại dưới dạng dự trữ sản xuất
(nguyên vật liệu, bán thành phẩm, công cụ, dụng cụ... ) sản phẩm đang trong quá
trình sản xuất (sản phẩm dở dang), thành phẩm, chi phí tiêu thụ, tiền mặt... trong
giai đoạn lưu thông. Trong bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp thì tài sản lưu
động chủ yếu được thể hiện ở các bộ phận là tiền mặt, các chứng khoán có thanh
khoản cao, các khoản phải thu và dự trữ tồn kho.
Giá trị của các loại tài sản lưu động của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
thường chiếm từ 25% đến 50% tổng giá trị tài sản của chúng. Vì vậy, quản lý và sử
dụng vốn lưu động hợp lý có ảnh hưởng rất quan trọng đến việc hoàn thành nhiệm
vụ chung của doanh nghiệp, trong đó có công tác nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Để quản lý vốn lưu động có hiệu quả, cần tiến hành phân loại vốn lưu động:
5Nhận xét: Mỗi cách phân loại cho ta hiểu rõ thêm về vốn theo từng khía cạnh.
Mỗi loại vốn đều có ưu nhược điểm riêng đòi hỏi phải được quản lý sử dụng hợp lý
và chặt chẽ. Đồng thời, mỗi loại vốn sẽ phát huy tác dụng trong những điều kiện
khác nhau, trong một cơ cấu vốn thích hợp.
1.1.4 Vai trò của vốn.
Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh dù với bất kỳ quy mô nào cũng cần
phải có một lượng vốn nhất định, nó là điều kiện tiền đề cho sự ra đời và phát triển
của các doanh nghiêp.
Về mặt pháp lý: mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện đầu tiên
doanh nghiệp đó phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó tối thiểu phải
bằng lượng vốn pháp định ( lượng vốn tối thiểu mà pháp luật quy định cho từng
6loại hình doanh nghiệp ) khi đó địa vị pháp lý của doanh nghiệp mới được xác lập.
Ngược lại, việc thành lập doanh nghiệp không thể thực hiện được. Trường hợp
trong quá trình hoạt động kinh doanh, vốn của doanh nghiệp không đạt điều kiện
mà pháp luật quy định, doanh nghiệp sẽ bị tuyên bố chấm dứt hoạt động như phá
sản, giải thể, sát nhập Như vậy, vốn có thể được xem là một trong những cơ sở
quan trọng nhất để đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân của một doanh nghiệp
trước pháp luật.
Về kinh tế: trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là một trong những yếu tố
quyết định sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp. Vốn không những đảm
bảo khả năng mua sắm máy móc thiết bị, dây truyền công nghệ để phục vụ cho quá
trình sản xuất mà mà còn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra
thường xuyên, liên tục.
Vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến năng lực sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Điều này
càng thể hiện rõ trong nền kinh tế thị trường hiện nay với sự cạnh tranh ngày càng
ngay gắt, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đầu tư
hiện đại hoá công nghệ Tất cả những yếu tố này muốn đạt được thì đòi hỏi
doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn.
Vốn cũng là yếu tố quyết định đến việc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh
nghiệp. Để có thể tiến hành tái sản suất mở rộng thì sau một chu kỳ kinh doanh,
vốn của doanh nghiệp phải sinh lời tức là hoạt động kinh doanh phải có lãi đảm
bảo vốn của doanh nghiệp tiếp tục mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín của
doanh nghiệp trên thương trường.
Nhận thức được vai trò quan trọng của vốn như vậy thì doanh nghiệp mới có
thể sử dụng vốn tiết kiệm, có hiệu quả hơn và luôn tìm cách nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn.
1.2 Các hình thức huy động vốn qua công cụ nợ
1.2.1 Khái quát huy động vốn qua công cụ nợ
7Để có được vốn hoạt động thì doanh nghiệp phải thực hiện huy động vốn từ
nhiều nguồn khác nhau. Huy động vốn là hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn
của doanh nghiệp.
Huy động vốn chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau hay nói cách khác
là các ràng buộc khác nhau như:
+ Hình thức pháp lý của doanh nghiệp: một doanh nghiệp nhà nước khi huy
động vốn phải chịu sự ràng buộc của các văn bản quản lý Nhà nước về tỷ lệ huy
động tối đa có thể (Luật DNNN).
+ Sự vững mạnh về tình hình tài chính nói chung và có khả năng thanh toán nói
riêng sẽ là những điều kiện mà chủ nguồn tài chính chú ý khi xem xét bỏ vốn cho
doanh nghiệp.
+ Chiến lược kinh doanh quyết định cầu về vốn và từ đó ảnh hưởng đến lượng
vốn cần thiết huy động của doanh nghiệp.
Xuất phát điểm của chiến lược kinh doanh là cơ sở để huy động vốn. Để thực
hiện huy động vốn thì ta cần phải xác định cầu về vốn của doanh nghiệp.
1.2.2 Phát hành trái phiếu:
Đây là hình thức cung ứng vốn trực tiếp từ công chúng. Doanh nghiệp phát
hành lượng vốn cần thiết dưới hình thức trái phiếu thường có kỳ hạn xác định và
bán cho công chúng. Đặc trưng cơ bản là tăng vốn gắn với tăng nợ của doanh
nghiệp. Cũng có những ưu điểm và hạn chế nhất định.
- Ưu điểm chủ yếu: có thể huy động được một lượng vốn cần thiết, chi phí kinh
doanh sử dụng vốn thấp hơn so với vay ngân hàng, không bị người cung ứng kiểm
soát chặt chẽ như vay ngân hàng và doanh nghiệp.
- Hạn chế: đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm chắc kỹ thuật tài chính để tránh áp
lực nợ đến hạn và vẫn có lợi nhuận đặc biệt khi kinh tế suy thoái lạm phát cao. Chi
phí kinh doanh phát hành trái phiếu khá cao vì doanh nghiệp cần có sự trợ giúp của
ngân hàng thương mại. Doanh nghiệp phải tính toán thoả mãn hai điều kiện: tài sản
cố định phải nhỏ hơn tổng số vốn và nợ dài hạn của doanh nghiệp. Những doanh
8nghiệp nào thoả mãn các điều kiện theo luật định mới được phép phát hành trái
phiếu.
1.2.3 Tín dụng thương mại:
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp với nhau, biểu
hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Để thanh toán hoặc đòi tiền lẫn nhau,
các doanh nghiệp thường sử dụng các công cụ như hối phiếu đòi nợ, hối phiếu
nhận nợ hay séc... Những loại giấy tờ này, nếu còn giá trị, đều có thể chuyển
nhượng lại.
Cơ sở pháp lý xác định quan hệ nợ nần của tín dụng thương mại là giấy nợ -
một dạng đặc biệt của khế ước dân sự xác định trái quyền cho người bán và nghĩa
vụ phải thanh toán nợ của người mua. Giấy nợ trong quan hệ tín dụng thương mại
được gọi là kỳ phiếu thương mại (thương phiếu), với 2 loại: hối phiếu và lệnh
phiếu.
Hối phiếu là một thương phiếu do chủ nợ lập ra để ra lệnh cho người thiếu nợ
trả một số tiền nhất định cho người hưởng thụ khi món nợ đáo hạn. Người hưởng
thụ có thể là người phát hành, cũng có thể là thứ ba.
Lệnh phiếu là một thương phiếu do người thiếu nợ lập ra để cam kết trả một số
tiền nợ nhất định khi đến hạn cho chủ nợ.
Về hình thức, thương phiếu được chia ra ba loại:
- Thương phiếu vô danh, không ghi tên người thụ hưởng
- Thương phiếu ký danh; có ghi tên người thụ hưởng
- Thương phiếu định danh, có ghi tên như thương phiếu ký danh nhưng không
chuyển nhượng cho người khác.
• Ưu nhược điểm của tín dụng thương mại:
Ưu điểm :
9Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng thừa thiếu vốn của các nhà doanh
nghiệp thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mại một mặt
đáp ứng nhu cầu vốn của những nhà doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn, đồng thời
giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá của mình.
Tiện dụng: Sự tồn tại của hình thức tín dụng này sẽ giúp cho các nhà doanh
nghiệp chủ động khai thác được nguồn vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Tính linh hoạt: tín dụng thương mại được cấp giữa các doanh nghiệp quen biết,
uy tín nên có lợi thế là thủ tục nhanh, gọn, đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn và góp
phần đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.
Tạo điều kiện mở rộng hoạt động của tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp vụ
chiết khấu thương phiếu.
Tín dụng thương mại góp phần đẩy nhanh quá trình sản xuất và lưu thông hàng
hóa, làm cho chu kỳ sản xuất rút ngắn lại.
Nhược điểm :
Tín dụng thương mại được cấp bằng hàng hoá nên doanh nghiệp cho vay chỉ có
thể cung cấp được cho một số doanh nghiệp nhất định - những doanh nghiệp cần
đúng thứ hàng hoá đó để phục vụ sản xuất hoặc bán ra.
Phạm vi hẹp, chỉ xảy ra giữa các doanh nghiệp, hơn nữa là chỉ thực hiện được
giữa các doanh nghiệp quen biết, tín nhiệm lẫn nhau.
Tín dụng thương mại do các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất kinh doanh cung
cấp, vì vậy qui mô tín dụng chỉ được giới hạn trong khả năng vốn hàng hoá mà họ
có. Nếu doanh nghiệp vay vốn có nhu cầu cao hơn thì doanh nghiệp cho vay không
thể đáp ứng được.
Điều kiện kinh doanh và chu kỳ sản xuất của các doanh nghiệp có thể không
phù hợp nhau, do vậy khi thời gian mà doanh nghiệp cho vay muốn cung cấp
không phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp cần đi vay thì tín dụng thương mại
không thể xảy ra.
10