Nội dung text: Khóa luận Hoàn thiện phương pháp tính lương trong xếp dỡ ở cảng Hải PhòngKhóa Luận Tốt Nghiệp
Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cảng Hải Phòng là cảng có lưu lượng hàng hóa thông qua lớn nhất
miền Bắc Việt Nam, có hệ thống thiết bị hiện đại và cơ sở hạ tầng đầy đủ, an
toàn, phục vụ vận tải, thương mại quốc tế. Chức năng chính là làm công tác
xếp dỡ giao nhận, bảo quản hàng hóa thông qua cảng.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường luôn có sự cạnh tranh mạnh mẽ
giữa các doanh nghiệp, để tồn tại và phát triển doanh nghiệp cần phải có
những chính sách, những biện pháp thiết thực tìm kiếm thị trường, thu hút
nhân tài. Trong lao động và tiền lương có cạnh tranh? Mức tăng lương thế nào
là hợp lý? Doanh nghiệp đang trả lương quá thấp hay quá cao và cách nào để
chính sách nhân sự là hợp lý những câu hỏi mà bất kỳ doanh nghiệp nào trong
đó có cảng cũng cần phải nghiên cứu và trả lời? Đồng thời để trả lời các câu
hỏi một cách thỏa đáng thì liệu doanh nghiệp sẽ phát sinh thêm bao nhiêu chi
phí ? Chi phí quá cao dẫn tới giá thành tăng thì việc cạnh tranh giá cả có
thuận lợi cho doanh nghiệp không?
Vì vậy tiền lương là một vấn đề quan tâm của các nhà quản lý cũng
như của người lao động cho dù phát sinh chi phí. Đó cũng là vấn đề quan
trọng cần phải giải quyết và giải quyết một cách cân nhắc, cẩn thận, rõ ràng
thỏa đáng .
Vấn đề tiền lương phức tạp và nhạy cảm. Làm thế nào để có thể kích
thích người lao động hăng hái sản xuất, nâng cao hiệu quả, chất lượng lao
động, giảm chi phí nhân công trong giá thành sản phẩm, tạo cho doanh nghiệp
đứng vững trên môi trường cạnh tranh, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh đang là yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp trong
xu thế hiện nay. Xuất phát từ những yêu cầu trên, là sinh viên chuyên ngành
kế toán em xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện phương pháp tính
lương trong xếp dỡ ở cảng Hải Phòng” với mong muốn tìm hiểu, bổ xung
SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 1 Lớp: CDKT01AKhóa Luận Tốt Nghiệp
Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế
thêm kiến thức chuyên môn cho bản thân và góp một phần nhỏ hoàn thiện
hơn cho công tác trả lương hiện nay của cảng.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Xuất phát từ lý do trên, đề tài có mục đích cơ bản sau:
- Thứ nhất đề tài đưa ra được tổng quan về cách trả lương hiện nay của
các lực lượng trong xếp dỡ ở cảng Hải Phòng. Qua đó phân tích đánh giá ưu
nhược điểm về cách trả lương của các lực lượng xếp dỡ đó
- Thứ hai đề tài đưa ra được một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa
phương pháp trả lương hiện nay của các lực lượng xếp dỡ đó.
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên đề tài đi sâu nghiên cứu những vấn đề chính
như sau:
- Khảo sát, tìm hiểu về cách trả lương của các lực lượng chính trong
dây chuyền xếp dỡ đó là công nhân bốc xếp thủ công, bốc xếp cơ giới, giao
nhận và cán bộ trực ban, chỉ đạo qua 3 tháng năm 2017. Qua đó phân tích
được thực trạng trả lương hiện nay của các lực lượng xếp dỡ đó ở cảng
- Từ nghiên cứu đó đưa ra các phương pháp hoàn thiện hơn công tác trả
lương cho công nhân xếp dỡ và ban điều hành, chỉ huy các xí nghiệp xếp dỡ
trong toàn cảng.
4 Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện các nôi dung cơ bản nêu trên, đề tài thực hiện các phương
pháp nghiên cứu sau:
- Thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, đánh giá các số liệu thực hiện
qua các tháng đầu năm 2017 để hoàn thiện việc trả lương, thưởng cho lao
động xếp dỡ ở cảng Hải Phòng
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Đề tài đi vào nghiên cứu tổng quan về phương pháp tính lương,
thưởng từ đó cho ta thấy thực trạng công tác trả lương hiện nay đối với công
SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 2 Lớp: CDKT01AKhóa Luận Tốt Nghiệp
Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế
nhân xếp dỡ, giao nhận và ban điều hành, chỉ huy các đội ở cảng qua đó đưa
ra được những vấn đề còn bất cập trong công tác đó.
- Đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu phương pháp trả lương cho công nhân
xếp dỡ, giao nhận và ban điều hành, chỉ huy các đội đề tài đã đưa ra được các
giải pháp hữu hiệu hơn khắc phục được nhược điểm của phương pháp tính
lương trước đây, giúp hoàn thiện hơn nữa công tác trả lương cho các lực
lượng này.
SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 3 Lớp: CDKT01AKhóa Luận Tốt Nghiệp
Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế
Chương 1.
NHỮNG LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC
TIỀN LƯƠNG
1.1- Khái quát chung về tiền lương
1.1.1- Khái niệm về tiền lương
Với nền sản xuất hàng hoá được tiến hành trên cơ sở chế độ công hữu
tư liệu sản xuất và kế hoạch hoá tập trung, hàng tiêu dùng cũng trong khuôn
khổ kế hoạch của Nhà nước, không coi là tồn tại thị trường sức lao động thì
tiền lương là một bộ phận sản phẩm xã hội biểu hiện dưới hình thức tiền tệ mà
người lao động với tư cách là chủ sở hữu tư liệu sản xuất nhận được của xã
hội để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân, tiền lương biểu hiện mối quan hệ
phân phối sản phẩm xã hội cho tiêu dùng cá nhân giữa toàn xã hội với từng
người lao động.
Do vậy tiền lương chỉ thuộc phạm vi phân phối, là một phần thu nhập
quốc dân được Nhà nước phân phối có kế hoạch cho người lao động theo số
lượng và chất lượng lao động.
Tiền lương còn có thể gọi là tiền công, thù lao lao động, thu nhập lao
động
Từ lúc nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường thì Tiền
lương được định nghĩa: “ Tiền lương là số tiền trả cho người công nhân viên
chức theo số lượng và chất lượng của họ đã đóng góp” (Trang 391- Từ điển
thống kê)
Ở các nước có kinh tế thị trường, pháp luật lao động quy định Tiền
lương bao gồm mọi khoản.
Ví dụ:
Ở Pháp: Bộ luật Lao động ghi: “ Sự trả công phải được hiểu là Tiền
lương hoặc lương bổng cơ bản bình thường hay tối thiểu và mọi thứ lợi ích,
SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 4 Lớp: CDKT01AKhóa Luận Tốt Nghiệp
Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế
phụ cấp khác được trả trực tiếp hay gián tiếp bằng tiền hay hiện vật mà người
sử dụng lao động trả cho người lao động theo việc làm của người lao động”.
Ở Nhật Bản – Luật tiêu chuẩn ghi: “ Tiền lương nói trong luật này bất
luận được gọi là Tiền lương, lương bổng hay tên khác là chi thù lao lao động
mà người sử dụng lao động chi trả cho công nhân”.
Ở nước ta: Ngay từ năm 1947 vản bản pháp luật của ta (Sắc lệnh số
29/SL-Điều 56, tiết thứ V) có ghi: “ Tiền công nói trong tiết này là Tiền lương
chính không kể các khoản phụ cấp mà chủ đã hứa trả hay đã ghi trong khế
ước. Không thể lấy cớ phải trả các khoản phụ cấp như phụ cấp thâm niên, phụ
cấp gia đình trong sắc lệnh này mà trừ một phần số tiền công đó”.
Tóm lại: “Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động là
giá cả của yếu tố sức lao động mà người sử dụng (chủ doanh nghiệp, Nhà
nước) phải trả cho người cung cấp sức lao động, tuân theo nguyên tắc cung
cầu, giá cả thị trường và luật pháp hiện hành của Nhà nước” [6].
Cùng với khái niệm tiền lương có tính chất khái quát là các khái niệm:
+ Tiền lương danh nghĩa
+ Tiền lương thực tế
+ Tiền lương tối thiểu
+ Tiền lương kinh tế
*” Tiền lương danh nghĩa là số tiền mà người lao động nhận được của
người sử dụng lao động trả theo hợp đồng lao động ; Tiền lương danh nghĩa
chưa thể hiện chính xác mức sinh hoạt của người lao động vì còn phụ thuộc
vào giá cả của hàng hoá và dịch vụ” [6].
* “Tiền lương thực tế là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà người lao
động có thể mua được bằng tiền lương danh nghĩa của mình sau khi đã đóng
các khoản thuế theo quy định của Chính phủ. Tiền lương thực tế phụ thuộc
vào 2 yếu tố tiền lương danh nghĩa và giá cả hàng hoá, giá cả dịch vụ. Tiền
SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 5 Lớp: CDKT01AKhóa Luận Tốt Nghiệp
Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế
lương thực tế là yếu tố quan trọng để tính mức thu nhập thực tế và mức sống
của người lao động” [6].
* ” Tiền lương tối thiểu là tiền lương thấp nhất, bảo đảm nhu cầu tối
thiểu về sinh học, xã hội học trả cho người lao động làm công việc giản đơn
nhất, ở mức độ nhẹ nhàng nhất trong môi trường lao động bình thường. Nó
đảm bảo cho người lao động có thể mua được những tư liệu sinh hoạt thiết
yếu để tái sản xuất sức lao động cho bản thân và có dôi dư một phần để nuôi
con và bảo hiểm lúc hết tuổi lao động” [6].
Điều 55 của Bộ luật lao động sửa đổi, bổ sung nước ta cũng quy định: “
mức lương của người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu do
Nhà nước quy định” [1]. Đối với người làm công ăn lương, mức lương tối
thiểu do Nhà nước quy định là mức lương thấp nhất trong xã hội.
Điều 56 của Bộ luật lao động nước ta xác định mức lương tối thiểu là
mức lương được ấn định theo giá sinh hoạt, bảo đảm cho người lao động làm
công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường, bù đắp sức lao
động giản đơn và một phần tích luỹ tái sản xuất sức lao động mở rộng
Mức lương tối thiểu là một chế định quan trọng bậc nhất của pháp luật
lao động nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động nhất là trong kinh
tế thị trường và trong điều kiện cung lớn hơn cầu về sức lao động.
* Tiền lương kinh tế là tiền trả thêm vào mức lương tối thiểu để đạt
được yêu cầu cung ứng sức lao động.
1.1.2- Ý nghĩa của tiền lương
Trong nền kinh tế thị trường, tiền lương đóng một vai trò quan trọng, là
đòn bảy kinh tế, thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất phát triển, tăng năng suất lao
động, tạo điều kiện cơ bản để tái sản xuất sức lao động.
+ Đối với doanh nghiệp: Tiền lương là một trong các yếu tố đầu vào
của quá trình sản xuất, cấu thành nên giá thành sản phẩm. Do đó thông qua
SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 6 Lớp: CDKT01AKhóa Luận Tốt Nghiệp
Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế
các chính sách tiền lương có thể đánh giá được hiệu quả kinh tế của việc sử
dụng lao động
+ Đối với người lao động: Tiền lương là phần thu nhập chủ yếu, là
phương tiện để duy trì sự tồn tại và phát triển của họ, ở một mức độ nào đó,
tiền lương là bằng chứng thể hiện giá trị, uy tín, địa vị của người lao động và
là phương tiện để đánh giá mức đối xử của chủ doanh nghiệp đối với người
lao động.
+ Đối với xã hội: Tiền lương không chỉ mang tính chất là chi phí mà đã
trở thành phương tiện tạo giá trị mới. Hay nói đúng hơn là nguồn kích thích
nâng cao những năng lực tiềm ẩn của người lao động trong quá trình sản sinh
ra các giá trị gia tăng, tạo động lực cho sản xuất kinh doanh đạt kết quả cao.
Khi tiền lương hợp lý sẽ tạo khả năng thu hút các nguồn lao động, sắp
xếp điều hoà giữa các ngành, các vùng, các lĩnh vực. Ngược lại, nếu tiền
lương không hợp lý sẽ làm cho chất lượng nguồn lao động giảm sút hoặc gây
ra sự chuyển dịch lao động, chảy máu chất xám và nghiêm trọng hơn nữa sẽ
dẫn đến những vấn đề xã hội phức tạp như đình công, bãi công..
Như vậy tiền lương đóng vai trò to lớn trong sản xuất và đời sống.
Chính vì vậy, hoàn thiện các chính sách quản lý, điều tiết tiền lương trong các
lĩnh vực, nhất là các doanh nghiệp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà
chính phủ cũng như những người quản lý phải chú ý thực hiện
1.1.3 Chức năng của tiền lương:
+ Chức năng thước đo giá trị: Tiền lương là cơ sở để điều chỉnh giá cả
cho phù hợp mỗi khi giá cả biến động
+ Chức năng tái sản xuất sức lao động: Nhằm duy trì khả năng làm việc
lâu dài và có hiệu quả trên cơ sở tiền lương bù đắp những hao phí lao động đã
mất mát, tiêu hao.
SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 7 Lớp: CDKT01AKhóa Luận Tốt Nghiệp
Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế
+ Chức năng công cụ quản lý doanh nghiệp: Trong hoạt động sản xuất
kinh doanh người lao động bao giờ cũng chịu hai sức ép đó là chi phí hoạt
động và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp luôn tìm cách
giảm thiểu chi phí, trong đó có chi phí tiền lương của nhà nước về quyền lợi
tối thiểu mà doanh nghiệp được hưởng
+ Chức năng đòn bẩy kinh tế: Thực tế cho thấy khi được trả công xứng
đáng thì người lao động sẽ gắn trách nhiệm của mình đối với lợi ích của
doanh nghiệp hơn. Một mức lương thoả đáng là nhân tố quyết định để họ phát
huy hết khả năng, óc sáng tạo của mình vào sản phẩm, làm qúa trình sản xuất
đi vào guồng máy chung của xã hội.
+ Chức năng điều hoà lao động: Khi một nền kinh tế ngày càng phát
triển, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt thì những chính
sách về tiền lương là không thể tách rời. Sự hấp dẫn với mức lương cao sẽ thu
hút lao động nhiều hơn, điều này sẽ cho thấy cơ cấu lao động trong các ngành
nghề không đều, mất cân đối. Do đó hệ thống bảng lương sẽ là điều kiện để
điều tiết lao động, nó sẽ tạo ra một cơ cấu lao động hợp lý góp phần làm ổn
định thị trường lao động từng quốc gia.
1.1.4 Thang lương, bảng lương
Thang lương, bảng lương trong các doanh nghiệp do doanh nghiệp tổ
chức xây dựng theo các nguyên tắc quy định của Chính phủ
Nguyên tắc của việc xây dựng thang lương, bảng lương:
- Thang lương, bảng lương được xây dựng cho lao động quản lý, lao
động chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ và công nhân trực tiếp sản xuât, kinh
doanh theo công việc và ngành nghề được đào tạo.
- Bội số của thang lương, bảng lương là hệ số mức lương cao nhất của
người lao động có trình độ quản lý, chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ cao nhất
so với người có trình độ thấp nhất.
SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 8 Lớp: CDKT01AKhóa Luận Tốt Nghiệp
Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế
- Số bậc của thang lương, bảng lương phụ thuộc vào độ phức tạp quản
lý, cấp bậc công việc đòi hỏi. Khoảng cách của bậc lương liền kề phải đảm
bảo khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ, các tài
năng, tích luỹ kinh nghiệm
- Mức lương bậc 1 của thang lương, bảng lương phải cao hơn mức
lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Mức lương của nghề hoặc công việc
độc hại, nguy hiểm, và đặc biệt độc hại, nguy hiểm phải cao hơn mức lương
của nghề hoặc công việc có điều kiện lao động bình thường.
1.1.4.1 Thang lương
Thang lương là những bậc lương làm thước đo chất lượng lao động
phân định những quan hệ tỷ lệ trả công lao động khác nhau theo trình độ
chuyên môn khác nhau giữa các nhóm người lao động.
Để thực hiện và hoàn thành công việc, người lao động phải có trình độ
lành nghề tương ứng với mức độ phức tạp của công việc. Đồng thời phải cố
gắng về sức lực cơ bắp, căng thẳng về thần kinh, tâm lý, tiêu hao năng lượng
trong quá trình lao động.
Thang lương bao gồm một số nhất định các bậc và những hệ số tiền
lương tương ứng. Mỗi bậc của thang lương thể hiện mức độ phức tạp và mức
tiêu hao lao động của công việc. Công việc ít phức tạp và mức tiêu hao năng
lượng ít nhất thì bậc thấp nhất – bậc khởi điểm hoặc bậc 1.
Trong khu vực sản xuất kinh doanh, bậc khởi điểm là bậc 1. Mức lương
bậc 1 có thể cao hơn mức lương tối thiểu.
Hệ số lương của mỗi bậc là tỷ số giữa mức lương cơ bản của bậc đó so
với mức lương bậc 1, chênh lệch giữa bậc cao nhất và bậc thấp nhất trong một
thang lương.
Bộ luật lao động của nước ta chỉ quan tâm đến mức lương tối thiểu còn
việc dùng lương cho các bậc trên thì theo nguyên tắc thoả thuận giữa người sử
SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 9 Lớp: CDKT01AKhóa Luận Tốt Nghiệp
Trường cao đẳng kinh tế và công nghệ thực phẩm Khoa: Kinh tế
dụng lao động và người lao động. Tuy vậy thang lương, bảng lương tại các
cảng do Chính phủ công bố.
Điều 57 Bộ luật lao động nước ta ghi: “ Chính phủ công bố thang
lương, bảng lương để làm cơ sở tính các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
ytế, tiền lương khi làm đêm, ngừng việc, nghỉ hàng năm và các trường hợp
khác của người lao động” [2].
Người sử dụng lao động và người lao động khi ký kết hợp đồng lao
động sẽ cùng nhau xác định bậc lương của từng người, căn cứ vào tiêu chuẩn,
cấp bậc kỹ thuật, bậc lương theo bậc công nhân tương ứng với mức độ phức
tạp của công việc.
1.1.4.2- Bảng lương
Thường áp dụng đối với công chức nhà nước, viên chức doanh nghiệp
do có những nghề khó phân chia được rõ rệt các mức độ phức tạp hoặc do đặc
điểm công việc phải bố trí lao động theo cương vị và trách nhiệm, theo chức
danh. Bảng lương cũng có các bậc, từ bậc 1 trở lên. Mỗi chức danh trong
bảng lương có các tiêu chuẩn nghiệp vụ, chuyên môn (chức danh, hiểu biết,
làm được và yêu cầu trình độ) theo các ngạch nghiệp vụ hoặc ngạch kỹ thuật.
Mỗi chức danh trong bảng lương có tiêu chuẩn nghiệp vụ chuyên môn
để làm căn cứ xếp lương. Mỗi công chức nhà nước đều phải được xếp vào
một bậc nhất định trong bảng lương quy định của nhà nước.
1.1.5- Phụ cấp lương:
Khi tồn tại khái niệm tiền lương cơ bản thì cũng tồn tại khái niệm phụ
cấp lương.
“Phụ cấp lương là phần tiền trả công lao động ngoài tiền lương cơ bản.
Nó bổ sung cho lương cơ bản về các yếu tố chưa đề cập hoặc đề cập chưa đầy
đủ, các yếu tố không ổn định hoặc vượt quá điều kiện bình thường nhằm đền
bù, khuyến khích lao động tốt hơn” [2]. Hiện nay có các loại phụ cấp như:
SV: Nguyễn Thị Thu Thủy 10 Lớp: CDKT01A