Nội dung text: Khóa luận Hoạt động hạch toán kế toán các chế độ BHXH tại BHXH Quận Dương KinhTrường Cao Đẳng Kinh Tế Và Công Nghệ Thực Phẩm
Khóa Luận Tốt Nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những loại hình bảo hiểm
ra đời từ rất sớm và đến nay đã được thực hiện ở hầu hết tất cả các
nước trên thế giới. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn coi chính
sách BHXH là một chính sách lớn, quan trọng nhằm không ngừng nâng
cao những điều kiện sống, lao động và luôn tạo sự an toàn trong cuộc
sống cho nhân dân. Ngày nay, khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát
triển thì hoàn thiện và phát triển hệ thống BHXH là yêu cầu tất yếu của
quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam cũng như ở các nước trên
thế giới.
Cùng với sự phát triển của hệ thống BHXH, đòi hỏi hệ thống kế
toán BHXH cũng phải không ngừng hoàn thiện và phát triển. Mặc dù
hiện nay, hệ thống kế toán BHXH ở nước ta đã đạt được những thành
tựu quan trọng, đáp ứng được yêu cầu quản lý ngày càng cao của hệ
thống BHXH Việt Nam. Tuy nhiên, qua quá trình hoạt động nó vẵn còn
bộc lộ một số hạn chế cần phải có biện pháp khắc phục để hệ thống kế
toán BHXH Việt Nam không những phù hợp với sự phát triển của hệ
thống BHXH ở nước ta hiện nay, mà còn có thể hoàn nhập với hệ thống
kế toán ở các nước phát triển trên thế giới.
1
Sinh viên : Hoàng Minh Thái Lớp : CĐKT01ATrường Cao Đẳng Kinh Tế Và Công Nghệ Thực Phẩm
Khóa Luận Tốt Nghiệp
Do đó, em nhận thấy việc nghiên cứu và hoàn thiện hoạt động kế
toán BHXH ở nước ta hiện nay là hết sức cần thiết để nâng cao hiệu
quả hoạt động của hệ thống BHXH Việt Nam. Là một sinh viên chuyên
ngành Kế Toán, sau một thời gian học tập ở trường; tiếp cận thực tế tại
BHXH quận Dương Kinh được sự chỉ bảo tận tình của cán bộ BHXH
Quận; và sự hướng dẫn tận tình Thầy giáo Trần Thành Công, em đã
mạnh dạn chọn đề tài cho khóa luận tốt nghiệp là :
"Hoạt động hạch toán kế toán các chế độ BHXH tại BHXH
quận Dương Kinh".
Kết cấu của đề tài gồm 3 chương :
Chương 1 : Lý luận chung về BHXH và kế toán BHXH.
Chương 2 : Thực trạng hoạt động hạch toán kế toán các chế độ
BHXH tại BHXH quận Dương Kinh.
Chương 3 : Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động hạch
toán kế toán các chế độ BHXH tại quận Dương Kinh.
2
Sinh viên : Hoàng Minh Thái Lớp : CĐKT01ATrường Cao Đẳng Kinh Tế Và Công Nghệ Thực Phẩm
Khóa Luận Tốt Nghiệp
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHXH VÀ KẾ TOÁN BHXH
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI.
1.1.1. Sự cần thiết khách quan và vai trò của BHXH.
1.1.1.1. Sự cần thiết khách quan của BHXH.
Con người muốn tồn tại và phát triển thì cần phải đáp ứng được các
nhu cầu tối thiểu của mình đó là đủ ăn, mặc và có chỗ ở, đi lại. Muốn vậy,
người ta phải lao động để tạo ra của cải vật chất. Để lao động được con người
phải có sức khoẻ và khả năng lao động nhất định. Trong thực tế không phải
lúc nào con người nói chung và người lao động nói riêng cũng chỉ gặp thuận
lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có
rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho
người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng
hạn, bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi
tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm... Khi rơi vào
những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà
mất đi, mà trái lại còn tăng lên, thậm trí còn xuất hiện một số nhu cầu mới
như: cần được khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau, tai nạn thương tật nặng
cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng. Bởi vậy, muốn tồn tại ổn định cuộc
sống, con người và xã hội phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải
quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng; đi
vay, hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước. Rõ ràng, những cách đó hoàn
toàn thụ động và không chắc chắn.
3
Sinh viên : Hoàng Minh Thái Lớp : CĐKT01ATrường Cao Đẳng Kinh Tế Và Công Nghệ Thực Phẩm
Khóa Luận Tốt Nghiệp
Như ở thời cổ đại, do chưa có tư hữu về tư liệu sản xuất, mọi người
phải tự lực, đoàn kết, cùng nhau hái lượm, săn bắn, sản phẩm thu được phân
phối bình quân. Khi gặp rủi ro, tai biến thì họ vừa tự mình gánh chịu, vừa
được các thành viên trong cộng đồng san sẻ, cưu mang. ở thời kỳ này, sự
tương trợ lẫn nhau mang tính tự phát theo bản năng và mới thực hiện trong
phạm vi cộng đồng nhỏ như gia đình, thôn xóm.
Trong xã hội phong kiến, quan lại thì dựa vào chế độ bổng lộc của nhà
vua, dân cư thì dựa vào sự đùm bọc lẫn nhau trong họ hàng, cộng đồng làng
xã hoặc sự giúp đỡ của những người hảo tâm và của triều đình. Ngoài ra, họ
có thể đi vay hoặc đi xin. Với những cách này, người gặp khó khăn hoàn toàn
thụ động trông chờ vào sự hảo tâm, giúp đỡ của người khác. Do vây, sự giúp
đỡ mới chỉ là khả năng có thể có, có thể không, có thể nhiều hoặc ít và không
hoàn toàn chắc chắn.
Từ khi nền kinh tế hàng hoá phát triển và đã xuất hiện việc thuê mướn
nhân công. Lúc đầu, giới chủ cam kết trả công lao động. Dần dần về sau, phải
cam kết đảm bảo cho người làm thuê có một thu nhập nhất định để họ trang
trải những nhu cầu sinh sống thiết yếu. Nếu người làm thuê bị ốm đau, tai
nạn, sinh con... phải nghỉ việc và không có lương, cuộc sống lập tức bị đe doạ.
Đến lúc này, những rủi ro uy hiếp người làm công ăn lương không chỉ còn là
sinh, lão, bệnh, tử mà còn là tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Người lao
động cần có sự đảm bảo, sự bảo vệ tốt hơn cho mình, nhưng tiền lương không
thể trang trải được tất cả những khoản đó trong khi người sử dụng lao động
chỉ muốn tối thiểu hoá chi phí của mình. Trong thực tế, nhiều khi các trường
hợp rủi ro không xảy ra, nhưng cũng có khi lại xảy ra dồn dập, buộc giới chủ
phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền mà họ không muốn. Chính vì thế những
người lao động phải liên kết nhau để đấu tranh buộc giới chủ phải thực hiện
4
Sinh viên : Hoàng Minh Thái Lớp : CĐKT01ATrường Cao Đẳng Kinh Tế Và Công Nghệ Thực Phẩm
Khóa Luận Tốt Nghiệp
những điều đã cam kết là đáp ứng nhu cầu cần thiết đó. Cuộc tranh chấp giữa
giới chủ và thợ diễn ra rất lâu, nhưng chưa bao giờ quyết liệt và đến nay càng
trở nên gay gắt hơn và tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội.
Đứng trước hoàn cảnh đó, Nhà nước là người thứ ba đứng ra giải quyết
mâu thuẫn và điều hoà lợi ích giữa chủ và thợ. Sự can thiệp này một mặt làm
tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải
đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa
trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Sự đóng góp của cả
chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi một quốc gia.
Quỹ này còn được bổ xung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm
bảo cho người lao động khi gặp những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối
quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc
sống của người lao động và gia đình họ được đảm bảo ổn định. Hạn chế
những tệ nạn xã hội xảy ra do nguyên nhân của thất nghiệp và nghèo đói; xây
dựng một nền an ninh xã hội bền vững. Mặt khác, giúp giới chủ có thể ổn
định sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh do năng suất lao động của người
lao động tăng lên. Bởi lẽ, khi người lao động được đảm bảo về lợi ích thì họ
sẽ trung thành với doanh nghiệp, làm việc có hiệu quả. Như vậy, nền kinh tế
sẽ được phát triển nhanh chóng và bền vững bởi được tăng trưởng về chất.
Như vậy, toàn bộ những hoạt động đối với những mối quan hệ ràng
buộc chặt chẽ trên thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động. Hay
nói cách khác, BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
đối với người lao động khi họ không may gặp phải những biến cố làm giảm
hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng
một quỹ tiền tệ tập trung nhăm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia
đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
5
Sinh viên : Hoàng Minh Thái Lớp : CĐKT01ATrường Cao Đẳng Kinh Tế Và Công Nghệ Thực Phẩm
Khóa Luận Tốt Nghiệp
Có thể nói rằng, BHXH là nhu cầu khách quan của người lao động và
đã trở thành một trong những quyền con người và được Đại hội đồng liên
hiệp quốc thừa nhận và ghi vào bản tuyên ngôn Nhân quyền ngày 10/2/1984
như sau: “Tất cả mọi người, với tư cách là thành viên của xã hội có quyền
hưởng BHXH. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã
hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người”.
1.1.1.2. Vai trò của BHXH.
Hoạt động của BHXH là hoạt động sự nghiệp vì lợi ích chung của toàn
xã hội, phục vụ cho mọi thành viên trong xã hội, lợi nhuận không phải mục
tiêu của hoạt động BHXH. Do đó, BHXH có vai trò to lớn trong đời sống
kinh tế - xã hội của con người, được thể hiện trên các mặt sau:
• Đối với người lao động:
Trong cuộc sống hàng ngày, các loại rủi ro như: ốm đau, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, già yếu rồi chết, có thể xảy ra với bất kỳ
người lao động nào, tại bất kỳ thời điểm nào trong cuộc sống con người. Nhất
là trong giai đoạn ngày nay, khi mà đất nước đang ngày càng hoàn thiện quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì những rủi ro này xảy ra một cách
thường xuyên và có tính chất ngày càng phổ biến hơn và sự biến động của thị
trường lao động và sản xuất kinh doanh đa dạng hơn, phức tạp hơn. Khi
những rủi ro này xảy ra đối với người lao động gây cho họ khó khăn cả về vật
chất lẫn tinh thần, gây nên mất hoặc giảm thu nhập, từ đó gây ra những ảnh
hưởng không tốt không chỉ cho chính anh ta, gia đình anh ta mà còn cho cả
cộng đồng xã hội loài người. Với tư cách là một trong những chính sách kinh
tế xã hội của Nhà nước, BHXH sẽ góp phần trợ giúp cho cá nhân những
người lao động gặp phải rủi ro, bất hạnh khắc phục những khó khăn bằng
6
Sinh viên : Hoàng Minh Thái Lớp : CĐKT01ATrường Cao Đẳng Kinh Tế Và Công Nghệ Thực Phẩm
Khóa Luận Tốt Nghiệp
cách tạo ra cho họ thu nhập thay thế, những điều kiện lao động thuận lợi,
giúp họ ổn định cuộc sống, yên tâm trong công tác, tạo cho họ một niềm tin
vào tương lai, từ đó góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao động
cũng như chất lượng công việc cho xí nghiệp, cơ quan họ đang làm việc nói
riêng và cho toàn xã hội nói chung.
Vì vậy, từ khi BHXH ra đời đối tượng tham gia ngày càng tăng. Cho
đến nay, khái niệm BHXH khá quen thuộc và gần gũi với người lao động
thuộc tất cả các thành phần kinh tế.
• Đối với người sử dụng lao động:
Muốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh được đảm bảo thì người chủ
phải có vốn, có công nghệ nhưng bên cạnh đó cần thiết hơn là phải tạo được
mối quan hệ tốt với người lao động, giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi
trách nhiệm của mình đối với người lao động thật tốt để họ yên tâm lao động
sản xuất và có niềm tin vào cuộc sống từ đó họ lao động sản xuất hăng hái
hơn, tạo ra nhiều sản phẩm tốt hơn làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của
người chủ sử dụng lao động hoạt động đạt kết quả cao, thu nhiều lợi nhuận.
Muốn vậy, người chủ sử dụng lao động phải tham gia đóng BHXH cho những
người lao động của mình để có thể đảm bảo những khoản chi cần thiết, kịp
thời đến người lao động khi họ gặp phải những rủi ro bất chắc. Việc tham gia
đóng BHXH cho người lao động của người chủ sử dụng lao động là góp vào
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng phát
triển hơn, nâng cao năng suất, hiệu quả lao động sản xuất của doanh nghiệp
cũng như nâng cao thu nhập cho người lao động và đóng góp vào việc phát
triển nền kinh tế của đất nước. Nói cách khác, ngoài tiền công thì BHXH là
động lực thúc đẩy hoạt động của người lao động. Chính vì vậy, người chủ sử
7
Sinh viên : Hoàng Minh Thái Lớp : CĐKT01ATrường Cao Đẳng Kinh Tế Và Công Nghệ Thực Phẩm
Khóa Luận Tốt Nghiệp
dụng lao động tham gia BHXH không chỉ đem lại lợi ích cho người lao động
mà còn cho chính bản thân họ.
• Đối với xã hội:
Thứ nhất, cần phải khẳng định rằng hoạt động BHXH là một hoạt động
dịch vụ, BHXH là một “doanh nghiệp” sản xuất ra những dịch vụ “ bảo hiểm”
cho người lao động, một dịch vụ mà bất cứ ai cũng cần đến. Nếu các doanh
nghiệp này ngày càng sản xuất ra nhiều loại dịch vụ bảo hiểm thì giá trị của
những sản phẩm dịch vụ này cũng được tính trực tiếp vào tổng sản phẩm xã
hội.
Thứ hai, với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của
Nhà nước, BHXH sẽ “bảo hiểm” cho người lao động, hoạt động BHXH sẽ
giải quyết những “trục trặc”, “rủi ro” xảy ra đối với người lao động, góp phần
tích cực của mình vào việc phục hồi năng lực làm việc, khả năng sáng tạo của
sức lao động. Sự góp phần này tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng suất
lao động cá nhân và xã hội với sự trợ giúp của người lao động khi họ gặp rủi
ro bằng cách tạo ra thu nhập thay thế thì BHXH đã gián tiếp tác động đến
chính sách tiêu dùng quốc gia làm tăng sự tiêu dùng cho xã hội.
Thứ ba, với tư cách là một quỹ tiền tệ, BHXH tác động mạnh mẽ đến
hệ thống tài chính Nhà nước, tới hệ thống tín dụng tiền tệ ngân hàng. Chính vì
vậy, đặt ra yêu cầu cho quỹ BHXH phải bảo tồn và phát triển quỹ bằng nhiều
hình thức khác nhau trong đó có hình thức phát triển phần “nhàn rỗi” của quỹ.
Phần này có tác động không nhỏ tới quá trình phát triển kinh tế của đất nước,
góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, việc làm mới, góp
8
Sinh viên : Hoàng Minh Thái Lớp : CĐKT01ATrường Cao Đẳng Kinh Tế Và Công Nghệ Thực Phẩm
Khóa Luận Tốt Nghiệp
phần quan trọng trong việc tạo ra việc làm cho người lao động. Từ đó, góp
phần giải quyết tình trạng thất nghiệp của đất nước, góp phần tăng thu nhập
cho cá nhân người lao động nói riêng và tăng tổng sản phẩm quốc nội cũng
như tổng sản phẩm quốc gia nói chung.
1.1.2. Những nội dung cơ bản của BHXH.
1.1.2.1. Bản chất của BHXH.
Ngày nay, Bảo hiểm xã hội phát triển mạnh và là một bộ phận quan
trọng nhất của hệ thống đảm bảo xã hội (hay còn gọi là an sinh xã hội) và ở
nhiều quốc gia có xu hướng hoà nhập giữa Bảo hiểm xã hội và Bảo đảm xã
hội. Tuy nhiên sự hoà hợp này không có nghĩa là hai thuật ngữ này là một.
Theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu: “ Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất
hoặc giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm vì những rủi ro xã hội, thông
qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên
tham gia Bảo hiểm xã hội, góp phần đảm bảo an toàn cuộc sống của người
lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội.”
Bảo hiểm xã hội là một loại hình bảo hiểm đặc biệt. Nó khác với những
loại hình bảo hiểm khác bởi tính xã hội và tính chất phi lợi nhuận. Người
tham gia bảo hiểm chỉ đóng một khoản trích từ tiền lương, nhưng lại được
hưởng 6 chế độ: hưu trí, tử tuất, thai sản, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp,
ốm đau và nghỉ dưỡng sức. Tiền bảo hiểm không được tính toán dựa trên sự
tương quan giữa phí bảo hiểm, lượng khách hàng thực tế và khách hàng tiềm
năng như trong Bảo hiểm thương mại, mà số tiền Bảo hiểm xã hội được căn
cứ theo thu nhập của người lao động trước khi gặp rủi ro hoặc theo mức
lương tối thiểu theo quy định hiện hành của Nhà nước.
9
Sinh viên : Hoàng Minh Thái Lớp : CĐKT01ATrường Cao Đẳng Kinh Tế Và Công Nghệ Thực Phẩm
Khóa Luận Tốt Nghiệp
Với cách hiểu như trên, bản chất của Bảo hiểm xã hội được thể hiện ở
những nội dung chủ yếu sau:
- Về phương diện cá nhân.
BHXH là một nhu cầu của con người, mục đích chính của BHXH là ổn
định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi không may bị ốm đau,
tai nạn, ... Mục đích này đáp ứng được tất cả mọi người lao động trong xã hội.
Tuy nhiên, không phải nhu cầu nào con người cũng được thoả mãn mà nó dựa
vào giá trị trong cuộc sống tối thiểu trước khi thoả mãn nhu cầu rộng lớn hơn
trong đời sống của con người. Còn đối với người chủ sử dụng lao động, họ
mạnh dạn mở rộng sản xuất kinh doanh thuê mướn lao động kể cả lao động
phổ thông, từ đó góp phần mở rộng quy mô sản xuất.
- Về phương diện kinh tế - xã hội.
Có thể nói BHXH vừa mang tính chất kinh tế vừa mang tính chất xã
hội:
▪ Về bản chất kinh tế: BHXH là phạm trù kinh tế tổng hợp. Trong đó
đối với những người lao động hưởng các chế độ xã hội thì là sự
đảm bảo thu nhập khi họ gặp phải rủi ro. Trong phạm vi của nền
kinh tế quốc dân, BHXH mang nội dung của quá trình phân phối và
phân phối lại một phần thu nhập trong dân cư thông qua việc hình
thành và sử dụng quỹ BHXH. Nền kinh tế càng phát triển thì
BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế, có thể nói kinh tế là nền
tảng của BHXH hay BHXH không vượt qua trạng thái kinh tế của
mỗi nước.
▪ Về mặt xã hội: Nhờ thực hiện nguyên tắc “số đông bù số ít” mà
quỹ BHXH luôn có một lượng đủ lớn, đủ trang trải mọi chi phí cho
10
Sinh viên : Hoàng Minh Thái Lớp : CĐKT01A