Nội dung text: Khóa luận Thực trạng công tác kiểm tra thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Thành phố HuếKhóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Giang
PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Đối với Đảng và Nhà nước ta, thuế vừa là một nguồn thu chủ yếu vào ngân sách
Nhà nước, vừa là công cụ tài chính quan trọng giúp Nhà nước điều hành, quản lý, điều
tiết nền kinh tế vĩ mô nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong
điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển và ngày càng hội nhập gần hơn với nền kinh
tế thế giới thì việc quản lý để đảm bảo được nguồn thu thuế phù hợp với quy mô của
nền kinh tế là một vấn đề rất cần thiết và cấp bách.
Kiểm tra thuế là một khâu quan trọng trong việc quản lý nguồn thu thuế từ các đối
tượng nộp thuế. Mục đích của kiểm tra thuế là phát hiện các trường hợp sai phạm pháp
luật về thuế, sai sót và gian lận thuế nhằm hạn chế mức thấp nhất tình trạng thất thu về
thuế cho Nhà nước, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật thuế cho các đối tượng nộp
thuế và cho người thi hành công vụ trong ngành thuế. Ngoài ra, việc kiểm tra còn nhằm
phát hiện các nội dung không phù hợp trong các văn bản pháp luật về thuế với thực tiễn
nhằm kiến nghị các cơ quan chức năng sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống thuế.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện đang chiếm gần 90% trong cơ cấu kinh tế
theo quy mô và có đóng góp lớn cho ngân sách Nhà nước. Mặt khác, hiện nay các
hành vi trốn thuế, lách thuế của các đối tượng sản xuất kinh doanh vẫn tiếp tục diễn ra.
Trong bối cảnh như vậy thì việc nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra thuế đối với các
doanh nghiệp nhỏ và vừa là rất cần thiết.
Chính vì vây, em lựa chọn đề tài “ Thực trạng công tác kiểm tra thuế đối với các
doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Huế” để qua đó có được những hiểu
biết về công tác kiểm tra thuế, cũng như góp phần nhỏ trong việc khẳng định vai trò
quan trọng của quy trình quản lý thuế, đặc biệt là công tác kiểm tra thuế tại Chi cục
thuế. Từ đó, đưa ra một số giải pháp và kiến nghị có tính khả thi nhằm nâng cao chất
lượng công tác này tại Chi cục thuế Thành phố Huế.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1 Mục tiêu tổng quát
Đánh giá thực trạng công tác kiểm tra thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa
trên địa bàn thành phố Huế.
SVTH: Phạm Thị Phương - Lớp: K43B - KTKT1Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Giang
2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá lý thuyết về thuế và công tác kiểm tra thuế.
- Tìm hiểu quy trình kiểm tra thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa mà Chi
cục thuế thành phố Huế đang áp dụng.
- Đánh giá được công tác kiểm tra thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
Chi cục thuế thành phố Huế.
- Tìm hiểu, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra thuế đối
với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Chi cục thuế Thành phố Huế.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là công tác kiểm tra thuế trong quy trình quản lý thuế tại
Chi cục thuế Thành phố Huế.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Huế.
- Phạm vi thời gian: Trong thời gian từ năm 2010 đến năm 2012.
4. Nội dung nghiên cứu
Với phạm vi đó, trọng tâm của vấn đề nghiên cứu là công tác kiểm tra thuế đối
với các DNNVV. Trên cơ sở phân tích kết quả thu thuế, kết quả công tác kiểm tra từng
năm để tìm ra ưu, nhược điểm của công tác này và tác động của các chính sách thuế
đến số thu NSNN và phát triển kinh tế, thực hiện công bằng xã hội. Đồng thời đề xuất
các giải pháp để thực hiện tốt công tác kiểm tra thuế và quản lý chặt chẽ đối tượng nộp
thuế là các DNNVV trên địa bàn thành phố Huế trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này được sử dụng để tổng
hợp lý luận và lý thuyết làm cơ sở để tìm hiểu thực trạng công tác kiểm tra thuế đối
với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng chủ
yếu trong chương 1.
- Phương pháp điều tra, thu thập số liệu:
+ Số liệu thứ cấp: là các số liệu thu thập từ các báo cáo của Chi cục thuế, niên giám
thống kê, báo cáo tài liệu, các thông tin đã được công bố trên báo chí, tạp chí, website
ngành thuế. Các số liệu này được sử dụng chủ yếu trong chương 2 để đánh giá thực trạng
công tác kiểm tra thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Huế.
SVTH: Phạm Thị Phương - Lớp: K43B - KTKT2Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Giang
+ Số liệu sơ cấp: Tham khảo ý kiến chuyên gia bằng cách phỏng vấn một số cán
bộ thuế có kinh nghiệm tại Chi cục thuế Thành phố Huế.
- Phương pháp xử lý số liệu:
+ Thống kê mô tả.
+ So sánh tổng hợp và phân tích.
Các phương pháp này được dùng để mô tả, phân tích các lượng chỉ tiêu liên quan
đến công tác kiểm tra thuế trong điều kiện thời gian và không gian cụ thể.
6. Kết cấu của để tài
Kết cấu của đề tài gồm có 3 phần:
- Phần 1: Đặt vấn đề.
- Phần 2: Nội dung và kết quả nghiên cứu, gồm có 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về thuế và công tác kiểm tra thuế.
Chương 2: Thực trạng công tác kiểm tra thuế tại Chi cục thuế Thành phố Huế.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra thuế tại
Chi cục thuế thành phố Huế.
- Phần 3: Kết luận và kiến nghị.
SVTH: Phạm Thị Phương - Lớp: K43B - KTKT3Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Giang
PHẦN 2. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ VÀ KIỂM TRA THUẾ
1.1 Những vấn đề cơ bản về thuế
1.1.1 Khái niệm thuế
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, là công cụ điều tiết và là cơ
sở đảm bảo công bằng xã hội, thúc đẩy cạnh tranh phát triển. Sự phát triển hay suy
thoái của một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào chính sách thuế của quốc gia đó. Nước
ta đã và đang chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hệ
thống thuế cũng ngày càng được hoàn thiện hơn.
Thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển
của Nhà nước. Để duy trì sự tồn tại của mình, Nhà nước cần có những nguồn tài chính
để chi tiêu, trước hết là chi cho việc duy trì và củng cố bộ máy quản lý Nhà nước; chi
cho các công việc thuộc chức năng của Nhà nước như: quốc phòng, an ninh, chi cho
xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng; chi cho các vấn đề về phúc lợi công cộng, về
sự nghiệp, về xã hội trước mắt và lâu dài.
Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên, Nhà nước dùng
quyền lực chính trị buộc dân phải đóng góp một phần thu nhập của mình cho Ngân
sách Nhà nước. Đây chính là hình thức cơ bản nhất để huy động tập trung nguồn tài
chính cho Nhà nước. Hình thức đóng góp đó chính là Thuế. [1]
Như vậy, Thuế luôn luôn gắn chặt với sự ra đời và phát triển của Nhà nước. Bản
chất của Nhà nước quy định bản chất giai cấp của thuế.
Ở nước ta hiện nay khi hình thành quỹ tiền tệ tập trung, Nhà nước thực hiện chức
năng quản lý và xây dựng kinh tế thông qua việc kiến thiết, xây dựng, phát triển cơ sở
hạ tầng và các công trình phúc lợi xã hội khác thì người nộp thuế thông qua đó đựơc
hưởng một phần kết quả nộp thuế của mình. Như vậy thuế ở nước ta luôn luôn là một
khoản thu bắt buộc, không được hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế nhưng họ được
gián tiếp hưởng lợi do chính sách đầu tư, phát triển của Nhà nước cho các công trình
phúc lợi xã hội khác nhau.
1.1.2 Đặc điểm của thuế
Thứ nhất, tính cưỡng chế và tính pháp lý cao
SVTH: Phạm Thị Phương - Lớp: K43B - KTKT4Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Giang
Đặc điểm này được thể chế hóa trong hiến pháp của mỗi quốc gia.Trong các
quốc gia, việc đóng thuế cho Nhà nước được coi là một trong những nghĩa vụ bắt buộc
của các tổ chức kinh tế và công dân cho Nhà nước. Các tổ chức kinh tế và công dân
thực hiện nghĩa vụ thuế theo các Luật thuế cụ thể được cơ quan quyền lực tối cao ở
quốc gia đó quy định phù hợp với các hoạt động và thu nhập của từng tổ chức kinh tế
và công dân. Tổ chức hoặc cá nhân nào không thực hiện nghĩa vụ thuế của mình, tức
là họ đã vi phạm Luật pháp của quốc gia đó.[2]
Đặc điểm này phân biệt sự khác nhau giữa thuế với các khoản đóng góp mang
tính tự nguyện cho NSNN và thuế đối với các khoản vay mượn của Chính phủ.
Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng thuế là biện pháp tài chính mang tính chất bắt
buộc của Nhà nước, nhưng sự bắt buộc đó được xác lập dựa trên nền tảng của các vấn
đề kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và quan hệ kinh tế thế giới.
Thứ hai, thuế là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp
Khác với các khoản vay, Nhà nước thu thuế từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân
nhưng không phải hoàn trả lại trực tiếp cho người nộp thuế sau một khoảng thời gian
với một khoản tiền mà họ đã nộp vào NSNN. Số tiền thuế thu được, Nhà nước sẽ sử
dụng cho các chi tiêu công cộng, phục vụ cho nhu cầu của Nhà nước và mỗicá nhân
trong xã hội. Mọi cá nhân, người nộp thuế cho Nhà nước cũng như người không nộp
thuế, người nộp nhiều cũng như người nộp ít, đều bình đẳng trong việc nhận được các
phúc lợi công cộng từ phía Nhà nước, được tính toán không dựa trên khối lượng lợi
ích công cộng họ nhận được mà dựa trên những hoạt động cụ thể và thu nhập của họ.
Đặc điểm này cũng phân biệt giữa thuế với phí và lệ phí.[2]
1.1.3 Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường
1.1.3.1 Thuế là công cụ tập trung chủ yếu nguồn thu cho Ngân sách Nhà Nước
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội bộ
nền kinh tế quốc dân. Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại các thu nhập
theo đường lối xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đặc biệt trong tình hình hiện nay,
nguồn thu từ nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chịu sức ép của quan hệ “mua
bán sòng phẳng”,“có vay, có trả”, thuế phải là công cụ quan trọng góp phần tích cực
giảm bội chi Ngân sách, giảm lạm phát, ổn định kinh tế - xã hội, chuẩn bị điều kiện và
tiền đề cho việc phát triển đất nước lâu dài. Thuế phải trở thành nguồn thu chủ yếu, bộ
SVTH: Phạm Thị Phương - Lớp: K43B - KTKT5Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Giang
phận cơ bản của nền tài chính quốc gia lành mạnh. Với nền kinh tế nhiều thành phần, hệ
thống thuế được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Thuế phải bao quát
được hầu hết các hoạt động kinh doanh, các nguồn thu nhập trong xã hội [3]
1.1.3.2 Thuế tham gia vào việc điều tiết kinh tế vĩ mô
Thông qua việc xây dựng đúng đắn cơ cấu và mối quan hệ giữa các sắc thuế, việc
xác định hợp lý người nộp thuế, đối tượng đánh thuế, thuế suất, chế độ miễn giảm,
phương pháp quản lý thu thuế dựa trên cơ sở hạch toán kế toán đầy đủ, chính xác, thuế
là công cụ điều tiết đối với thu nhập của các tầng lớp xã hội thể hiện trên hai mặt:
khuyến khích, nâng đỡ những hoạt động kinh doanh cần thiết làm ăn có hiệu quả; đồng
thời thu hẹp, kìm hãm những ngành nghề, mặt hàng cần hạn chế sản xuất, hạn chế tiêu
dùng theo hướng tiết kiệm, chống lãng phí. Thuế còn khuyến khích việc bỏ vốn đầu tư
phát triển sản xuất, khuyến khích các cơ sở kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế
cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật... Thuế thúc đẩy mở rộng thị trường một cách
lành mạnh, vừa khuyến khích giao lưu hàng hoá, vừa đấu tranh hạn chế mua bán lòng
vòng qua nhiều khâu trung gian, đầu cơ tích trữ để hưởng chênh lệch giá.[2]
1.1.3.3 Thuế là công cụ để điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong
phân phối
Hệ thống thuế được áp dụng thống nhất giữa các ngành nghề, các thành phần
kinh tế, các tầng lớp dân cư theo nguyên tắc đảm bảo công bằng và bình đẳng trong
làm nghĩa vụ và quyền lợi. Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính
sách động viên giống nhau (thuế suất) giữa các tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành
phần kinh tế cùng hoạt động trong một lĩnh vực, bảo đảm sự công bằng và bình đẳng
về quyền lợi và nghĩa vụ với mọi công dân, không có những đặc quyền, đặc lợi cho bất
cứ đối tượng nào. Thuế kích thích mọi công dân, doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật, đầu tư
vốn, đầu tư chất xám, làm ăn giỏi và có thu nhập cao một cách chính đáng.
1.1.3.4 Thuế còn là công cụ để kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh
Vai trò này được xuất hiện chính do quá trình tổ chức thực hiện thuế trong thực
tế. Để thu được thuế và thực hiện đúng các Luật thuế đã được ban hành, cơ quan thuế
và các cơ quan liên quan phải bằng mọi biện pháp nắm vững số lượng, quy mô các cơ
sở sản xuất kinh doanh, ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh, mặt hàng họ được phép
kinh doanh. Từ công tác thu thuế mà cơ quan thuế sẽ phát hiện những việc làm sai trái,
SVTH: Phạm Thị Phương - Lớp: K43B - KTKT6Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Giang
vi phạm Luật của các cá nhân, các đơn vị sản xuất kinh doanh, hoặc phát hiện ra
những khó khăn mà họ gặp phải để giúp đỡ họ tìm biện pháp tháo gỡ. Như vậy, do
công tác quản lý thu thuế mà có thể kết hợp kiểm tra, kiểm soát toàn diện các mặt
hàng, hoạt động của các cơ sở kinh tế đảm bảo thực hiện tốt quản lý Nhà nước về mọi
mặt của đời sống kinh tế - xã hội.[2]
1.1.4 Bản chất của thuế
Thuế là một phạm trù kinh tế đồng thời cũng là một phạm trù lịch sử, thuế luôn
luôn gắn chặt với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước.
Thuế là một công cụ tài chính của Nhà nước, được sử dụng để hình thành nên
quỹ tiền tệ tập trung nhằm sử dụng cho mục đích công cộng.
Bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong, vốn có của thuế.
Những đặc điểm đó là:
Thuế luôn luôn gắn liền với quyền lực Nhà nước. Thuế là nghĩa vụ cơ bản của
công dân đã được quy định trong Hiến Pháp; thuế là một phần thu nhập của các tầng
lớp dân cư bắt buộc phải nộp cho Nhà nước; thuế là một hình thức chuyển giao thu
nhập không mang tính chất hoàn trả trực tiếp.
1.1.5 Chức năng của thuế
Thuế là một phạm trù tài chính, nó biểu hiện những thuộc tính chung vốn có của
các quan hệ tài chính. Tuy nhiên thuế cũng có những đặc trưng, hình thức vận động và
các chức năng riêng bắt nguồn từ tổng thể các mối quan hệ tài chính.
Căn cứ vào nội dung cùng với quá trình ra đời, tồn tại và phát triển của thuế,
chúng ta thấy rằng thuế thực hiện các chức năng sau đây:
- Chức năng phân phối và phân phối lại: là chức năng cơ bản, đặc thù của thuế.
Ngay từ lúc ra đời thuế là phương tiện dùng để động viên nguồn tài chính vào ngân
sách Nhà nước (có ở tất cả các kiểu Nhà nước).Về mặt lịch sử, chức năng huy động
nguồn tài chính là chức năng đầu tiên, phản ánh nguyên nhân nảy sinh ra thuế.Thông
qua chức năng này, các qũy tiền tệ tập trung của Nhà nước được hình thành để đảm bảo
cơ sở vật chất cho sự hoạt động thường xuyên và tồn tại của Nhà nước.
- Chức năng điều tiết đối với nền kinh tế.
Thực hiện chức năng điều chỉnh của thuế thông qua việc quy định các hình thức
thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế; xây
SVTH: Phạm Thị Phương - Lớp: K43B - KTKT7Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Giang
dựng chính xác, hợp lý các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của người nộp
thuế. Trên cơ sở đó Nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào qũy đạo chung
của nền kinh tế quốc dân, phù hợp với lợi ích của toàn xã hội. Trong điều kiện chuyển
sang cơ chế thị trường, vai trò kích thích kinh tế thông qua thuế ngay càng được nâng
cao. Nhà nước sử dụng thuế để tác động lên lợi ích kinh tế của các chủ thể vì lợi ích
của nền kinh tế quốc dân. Với công cụ thuế, sự can thiệp của Nhà nước không mang
tính chất mệnh lệnh, bắt buộc các chủ thể phải kinh doanh hay không kinh doanh mà
chủ yếu tạo ra sự lựa chọn đối với các chủ thể kinh doanh. [3]
1.1.6 Phân loại thuế
Tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước mà hệ thống pháp luật thuế
bao gồm nhiều loại thuế khác nhau. Ðể định hướng xây dựng và quản lý hệ thống thuế,
việc sắp xếp các Luật thuế có cùng tính chất thành những nhóm khác nhau, gọi là phân
loại thuế.
Phân loại thuế là việc sắp xếp các loại thuế trong hệ thống pháp luật thuế thành
những nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định. Tuỳ thuộc vào mục tiêu, yêu
cầu của từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội mà cơ cấu và nội dung các Luật thuế
có khác nhau. Cũng tuỳ thuộc vào cơ sở, mục đích phân định, thông thường thuế được
phân loại theo các tiêu thức sau:
+ Căn cứ vào tính chất của nguồn tài chính động viên vào Ngân sách Nhà nước,
thuế được phân làm 2 loại: thuế trực thu và thuế gián thu.
Thuế gián thu là loại thuế mà Nhà nước sử dụng nhằm động viên một phần thu
nhập của người tiêu dùng hàng hoá, sử dụng dịch vụ thông qua việc thu thuế đối với
người sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. Tính chất gián thu thể hiện ở chỗ người
nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất với nhau. Thuế gián thu là một bộ phận
cấu thành trong giá cả hàng hoá, dịch vụ do chủ thể hoạt động sản xuất, kinh doanh
nộp cho Nhà nước nhưng người tiêu dùng lại là người phải chịu thuế. Ở nước ta thuộc
loại thuế này bao gồm: Thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu
thụ đặc biệt...
Thuế trực thu là loại thuế mà Nhà nước thu trực tiếp vào phần thu nhập của các
pháp nhân hoặc thể nhân. Tính chất trực thu thể hiện ở chỗ người nộp thuế theo quy
định của pháp luật đồng thời là người chịu thuế. Thuế trực thu trực tiếp động viên,
SVTH: Phạm Thị Phương - Lớp: K43B - KTKT8Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Giang
điều tiết thu nhập của người chịu thuế. Ở nước ta thuộc loại thuế này gồm: thuế thu
nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế chuyển quyền
sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp...
Sự phân loại thuế thành thuế trực thu và thuế gián thu có ý nghĩa quan trọng
trong việc xây dựng chính sách pháp luật thuế.
+ Căn cứ vào đối tượng đánh thuế. Theo cách phân loại này thuế được chia
thành: Thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ như thuế giá trị gia tăng,
thuế đánh vào sản phẩm hàng hoá như thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt.
Thuế đánh vào thu nhập như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với người
có thu nhập cao. Thuế đánh vào tài sản như thuế nhà đất, thuế đánh vào việc khai thác
hoặc sử dụng một số tài sản quốc gia như thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất, sử dụng
vốn của Ngân sách Nhà nước, thuế khác và lệ phí, phí..
1.2 Doanh nghiệp nhỏ và vừa, vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc
thực hiện nghĩa vụ NSNN
1.2.1 Khái niệm
Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, có đầy đủ tư
cách pháp nhân, được thành lập theo luật doanh nghiệp Nhà nước, luật Hợp tác xã, luật
Doanh nghiệp, luật Đầu tư trực tiếp của nước ngoài hoặc theo hiệp định ký kết giữa
Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước ngoài, bao gồm các loại hình doanh nghiệp
sau đây:
Doanh nghiệp Nhà nước;
Doanh nghiệp tập thể;
Doanh nghiệp tư nhân;
Công ty hợp danh;
Công ty trách nhiệm hữu hạn;
Công ty cổ phần;
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Theo quy định tại điều 4, luật Doanh nghiệp của Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam số 60/ 2005/ QH11 ngày 29/11/2005, doanh nghiệp là tổ chức
kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Như
SVTH: Phạm Thị Phương - Lớp: K43B - KTKT9Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Hoàng Giang
vậy, doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế được thực thành lập để thực hiện các hoạt
động kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa: Theo Nghị định 90/2001 NĐ-CP ngày
23/11/2011 của Chính phủ quy định doanh nghiệp nhỏ và vừa là các cơ sở kinh doanh
độc lập có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc có số lao động trung bình hàng
năm không quá 300 người.
Theo tiêu chí này thì 100% doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Huế do Chi cục
thuế thành phố Huế quản lý thu thuế đều là các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định kể từ ngày luật có hiệu lực thì việc thành
lập doanh nghiệp có các loại hình doanh nghiệp sau: DNTN, công ty TNHH một thành
viên, công ty TNHH 2 thành viên, công ty cổ phần, công ty hợp danh.
Sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường mang tính tự phát và có nhiều
biến động phụ thuộc vào cung cầu của thị trường hàng hoá, vào chính sách của Nhà nước
trong việc khuyến khích hay hạn chế phát triển. Với quy mô tuy nhỏ nhưng các doanh
nghiệp nhỏ và vừa lại chiếm một số lượng lớn trong nền kinh tế, thường tập trung ở các
ngành xây dựng, thương mại, dịch vụ. Các doanh nghiệp này có tính năng động cao nên dễ
dàng chuyển hướng kinh doanh, dễ thích nghi với hoàn cảnh và yêu cầu của nền kinh tế.
Ý thức chấp hành pháp luật đối với khu vực này thường không cao, thể hiện qua
việc thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ mua bán hàng hoá chưa đầy đủ,
không theo đúng quy định của Nhà nước, nếu có chỉ mang tính chất đối phó.
1.2.2 Vai trò của doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ ngân sách
Doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động xã hội, môi trường, đảm bảo sự phát
triển bền vững của nền kinh tế. Nhờ doanh nghiệp mà của cải, vật chất và dịch vụ
trong nền kinh tế quốc dân sẽ tăng nhanh về cả số lượng lẫn chất lượng, chủng loại
hàng hoá, dịch vụ phong phú thoả mãn nhu cầu của xã hội.
Doanh nghiệp giữ vị trí quan trọng trong việc đóng góp nguồn thu cho NSNN, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, có vai trò chủ chốt giải quyết việc làm cho người lao
động, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Khi các doanh nghiệp phát triển sẽ tạo nhiều cơ hội tăng việc
làm, thu hút lao động, nâng cao thu nhập của dân cư, góp phần xoá đói giảm nghèo, thực
hiện công bằng xã hội. Sự phát triển của các doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện phát huy lợi
thế kinh tế của mỗi vùng, tạo điều kiện cho cơ quan thuế nuôi dưỡng, khai thác nguồn thu.
SVTH: Phạm Thị Phương - Lớp: K43B - KTKT 10