Nội dung text: Luận văn Một số biện pháp đẩy mạnh công tác thu nợ BHXH tại Bảo hiểm xã hội Thành phố Hải Phòng giai đoạn 2015-2020Khóa Luận Tốt Nghiệp
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước góp
phần bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động, ổn định chính trị, trật tự
an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc. Chính
sách BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách kinh tế và xã hội của
Nhà nước, là những chủ trương, quan điểm, nguyên tắc BHXH để giải quyết
các vấn đề xã hội liên quan đến một tầng lớp đông đảo người lao động và các
vấn đề kích thích phát triển kinh tế của từng thời kỳ. Trong mỗi giai đoạn phát
triển khinh tế khác nhau, chính sách BHXH được Nhà nước đề ra và thực hiện
phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội từng giai đoạn.
Thực hiện chương trình hành động triển khai Nghị quyết 21-NQ/TW về
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế giai đoạn 2012-2020 để phát triển nhanh và bền vững đối tượng, phục vụ
tốt quyền lợi của người tham gia cùng với đó, tập trung giảm nợ đọng, đấu
tranh với các hành vi vi phạm trục lợi quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
(BHYT). Tính đến hết năm 2014, cả nước hiện có khoảng 63 triệu người tham
gia bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế trên 90.5 triệu dân, chiếm tỷ lệ 61%.
Tổng thu BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) ước đạt 218.819 tỷ
đồng, tổng chi BHXH, BHYT là 191.445 tỷ đồng.
Tuy đạt được những thành tựu đáng kể, song trên thực tế hoạt động thu
BHXH, BHYT, BHTN ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Tình trạng nợ BHXH
kéo dài khiến nhiều quyền lợi người lao động bị ảnh hưởng nghiêm trọng,
trong đó người lao động không những không được hưởng các quyền lợi trước
mắt như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, trợ cấp thất nghiệp mà còn ảnh
hưởng đến quyền lợi hưu trí sau này. Nguyên nhân xuất phát một phần do sự
khó khăn chung của nền kinh tế, nguyên nhân khác là do chế tài xử phạt chưa
Hoàng Minh Thái 1
Chuyên ngành: Kế Toán
Lớp: CDKT01AKhóa Luận Tốt Nghiệp
nghiêm khắc. Tính đến hết năm 2014, tổng số nợ BHXH, BHYT, BHTN trên
cả nước xấp xỉ gần 5.580 tỷ đổng.
Theo tính toán, đến năm 2023 số thu của Quỹ sẽ bằng số chi. Từ năm
2024 trở đi để đảm bảo chi chế độ hưu trí, tử tuất, ngoài số thu trong năm phải
trích sử dụng thêm kết dư quỹ của các năm trước. Và dự kiến đến năm 2037 thì
quỹ mất khả năng thanh toán. Do đó, nếu không có chính sách hoặc biện pháp
tăng thu hoặc giảm chi thì số thu bảo hiểm xã hội trong năm và số tồn tích bắt
đầu không đảm bảo khả năng chi trả. Hơn nữa, nếu không có biện pháp cứng
rắn để thu nợ thì hệ lụy của nó sẽ ảnh hưởng lớn đến trật tự an toàn xã hội và
vi phạm các lợi ích cơ bản về an sinh xã hội của người lao động. Hiện nay
cũng chưa có văn bản hướng dẫn việc giải quyết quyền lợi về bảo hiểm của
người lao động trong các trường hợp chưa đóng, chậm đóng, ngừng hoạt động
hoặc chủ doanh nghiệp bỏ trốn không trả được nợ bảo hiểm xã hội làm ảnh
hưởng đến quyền lợi người lao động.
Với tư cách là một cán bộ đang làm việc thực tiễn trong lĩnh vực thu
BHXH của thành phố Hải Phòng, để góp phần xây dựng cơ chế thu hợp lý,
hiệu quả, đẩy mạnh công tác thu nợ tác giả chọn vấn đề "Một số biện pháp đẩy
mạnh công tác thu nợ BHXH tại Bảo hiểm xã hội thành phố Hải Phòng giai
đoạn 2015-2020" làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Thời gian qua, lĩnh vực BHXH thu hút được sự quan tâm đông đảo của
các nhà nghiên cứu. Các công trình có thể kể đến như: “Chiến lược phát triển
bảo hiểm xã hội phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm
2020”(1999) của tác giả Nguyễn Huy Ban; “Lộ trình và giải pháp mở rộng đối
tượng tham gia BHXH bắt buộc theo nghị định 01/2003/NĐ-CP ngày
9/1/2003”(2004) của tác giả Dương Xuân Triệu; “Cơ sở khoa học để hoàn
Hoàng Minh Thái 2
Chuyên ngành: Kế Toán
Lớp: CDKT01AKhóa Luận Tốt Nghiệp
thiện qui chế tài chính đối với BHXH Việt Nam”(1999) của tác giả Phạm
Thành; “Hoàn thiện quy chế quản lý tài chính và chế độ kế toán trong hệ thống
BHXH Việt Nam”(2005) của tác giả Nguyễn Phước Tường; “Thực trạng quản
lý thu BHXH hiện nay và các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
thu”(1996) của tác giả Nguyễn Cao Châu; “Các giải pháp chủ yếu nhằm tăng
cường quản lý thu chi BHXH trên địa bàn tỉnh Nghệ An”(1998) của tác giả
Trần Quốc Toàn; “Mô hình thực hiện BHXH ở một số nước trên thế giới và
những bài học có thể vận dụng vào Việt Nam” (2007) của tác giả Đào Thị Hải
Nguyệt; “Xây dựng chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam đến năm
2020”(2006) của tác giả Dương Xuân Triệu; “Hoàn thiện quy chế thu
BHXH”(2005) của tác giả Nguyễn Tiến Quyết: “Thực hiện các chế độ BHXH
theo Luật BHXH- Thực trạng và giải pháp” (2009) của tác giả Nguyễn Anh
Minh; “Nâng cao chất lượng hoạt động kiểm tra trong hệ thống BHXH Việt
Nam”(2010) của tác giả Nguyễn Minh Hải; “Hoàn thiện quy trình quản lý thu,
quy trình cấp và quản lý sổ BHXH”(2010) của tác giả Dương Xuân Triệu.
Song chưa có công trình nào đề cập đến “Một số biện pháp đẩy mạnh công
tác thu nợ BHXH tại Bảo hiểm xã hội thành phố Hải Phòng giai đoạn 2015-
2020".
3. Mục tiêu nghiên cứu
Luận giải cơ sở khoa học, đánh giá tổng quát thực trạng nợ BHXH bắt
buộc trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2014 và đề xuất những giải pháp
chủ yếu nhằm đẩy mạnh công tác thu nợ BHXH bắt buộc giai đoạn 2015 đến
2020 tại thành phố Hải Phòng
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu: Những quy phạm pháp luật về BHXH liên
quan đến cơ chế thu BHXH, các quy định về việc xử lý các đơn vị chậm đóng,
Hoàng Minh Thái 3
Chuyên ngành: Kế Toán
Lớp: CDKT01AKhóa Luận Tốt Nghiệp
nợ tiền BHXH của BHXH Việt Nam được áp dụng trên địa bàn thành phố Hải
Phòng.
4.2 Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các vấn đề về thu, nộp BHXH của
người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan BHXH, các yếu tố ảnh
hưởng đến số thu BHXH, đối tượng nộp BHXH, phương thức thu, quy trình tổ
chức quản lý thu, những biện pháp chống thất thu và giảm nợ đọng tiền
BHXH.
Phạm vi của đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng cơ chế thu BHXH
bắt buộc (không nghiên cứu quỹ khám chữa bệnh BHYT; BHXH tự nguyện,
BHYT, BHTN; BHXH bắt buộc đối với người lao động làm việc trong các cơ
quan nhà nước, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang), trên địa bàn thành phố
Hải Phòng trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
Chủ nghĩa Mác- Lê nin.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp tổng hợp, so sánh, thống
kê, phân tích số liệu từ năm 2010 đến năm 2015, nhằm phân tích hoạt động quản
lý thu, mở rộng đối tượng thu và đề ra các biện pháp chống thất thu, giảm nợ
đọng tiền BHXH, nhằm đẩy mạnh công tác thu nợ BHXH trên địa bàn thành
phố Hải Phòng.
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
- Góp phần hệ thống hóa những vấn đề về BHXH, BHXH bắt buộc và
hoàn thiện cơ chế thu BHXH bắt buộc.
- Phân tích thực trạng và rút ra những thành công, hạn chế và nguyên nhân
của hạn chế về cơ chế thu nợ BHXH bắt buộc trên địa bàn thành phố Hải
Phòng.
Hoàng Minh Thái 4
Chuyên ngành: Kế Toán
Lớp: CDKT01AKhóa Luận Tốt Nghiệp
- Luận văn đã đề xuất phương hướng và giải pháp khả thi nhằm hoàn
thiện cơ chế thu nợ BHXH, mở rộng đối tượng tham gia BHXH, góp phần làm
tăng số thu, hoàn thiện cơ chế thu BHXH bắt buộc trên địa bàn thành phố Hải
Phòng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
các phụ lục, luận văn được cấu trúc bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực thực tiễn để hoàn thiện cơ chế thu
- giảm nợ tiền BHXH.
Chương 2: Thực trạng nợ đọng tiền BHXH trên địa bàn thành phố Hải
Phòng.
Chương 3: Định hướng và biện pháp nhằm đẩy mạnh công tác thu nợ
BHXH trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn từ 2015 đến 2020.
Hoàng Minh Thái 5
Chuyên ngành: Kế Toán
Lớp: CDKT01AKhóa Luận Tốt Nghiệp
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỂ HOÀN THIỆN CƠ
CHẾ THU - GIẢM NỢ TIỀN BHXH
1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ BẢO
HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
1.1.1 Lịch sử ra đời, quan niệm về BHXH và BHXH bắt buộc
1.1.1.1 Tính tất yếu khách quan sự ra đời của Bảo hiểm xã hội bắt buộc
Trong quá trình sinh tồn con người phải lao động để làm ra của cải
vật chất, nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu nhất là ăn, ở, mặc, đi
lại, v.v... Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng gặp
may mắn, thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình
thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp con người gặp khó khăn, trắc
trở, rủi ro xảy ra do điều kiện tự nhiên, môi trường sống, hoặc điều kiện
khách quan như: ốm đau, tai nạn, mất việc làm, già yếu, không có khả
năng lao động, tử vong... Vì vậy, từ xa xưa con người đã có ý thức san sẻ,
cưu mang, đùm bọc lẫn nhau. Sự tương trợ cộng đồng dần dần được mở rộng
và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau như: việc lập quỹ tương tế, các
hội đoàn bằng tiền hoặc bằng hiện vật để trợ giúp lẫn nhau.
Từ thế kỷ 18, khi nền công nghiệp phát triển ở châu Âu thì lực lượng làm
công ăn lương (công nhân) ngày càng đông. Những người này do bán sức lao
động để nhận tiền lương trang trải cho cuộc sống. Khi gặp phải những trường
hợp ốm đau, tai nạn, già yếu không làm việc được nên không có tiền lương để
sinh sống, lâm vào cảnh khốn cùng, phát sinh nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến xã
hội. Đồng thời những hình thức trợ cấp xã hội tự phát không đủ khả năng về
kinh phí để trợ cấp ổn định lâu dài.
Hoàng Minh Thái 6
Chuyên ngành: Kế Toán
Lớp: CDKT01AKhóa Luận Tốt Nghiệp
Trước sức ép của người lao động và để duy trì lực lượng làm công ăn
lương, giới chủ buộc phải từng bước cam kết đảm bảo cho người lao động có
một khoản thu nhập nhất định gọi là trợ cấp để họ trang trải những nhu cầu
sinh sống thiết yếu khi gặp rủi ro. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng
lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế - xã hội. Do vậy, Nhà nước
đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn buộc cả giới chủ và giới thợ
phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng để hỗ trợ một phần khi
không có việc làm, ốm đau, tai nạn... Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình
thành một quỹ tiền tệ tập trung có sự quản lý giám sát của Nhà nước.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên
được thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động. BHXH ra đời là kết
quả của một quá trình đấu tranh lâu dài giữa giai cấp công nhân làm thuê với
giới chủ tư bản. Kết quả này đã được các nước trên thế giới ghi nhận và đều cố
gắng xây dựng cho mình một hệ thống BHXH phù hợp. Như vậy, BHXH ra
đời và phát triển là một tất yếu khách quan và ngày càng phát triển cùng với sự
phát triển của mỗi quốc gia, mọi thành viên trong xã hội đều thấy cần thiết
tham gia BHXH, nó trở thành quyền lợi và nhu cầu không thể thiếu của người
lao động.
1.1.1.2 Lịch sử ra đời và phát triển của BHXH
Bảo hiểm và BHXH đã hình thành rất sớm trong lịch sử phát triển của xã
hội loài người và đã được nhiều nhà khoa học đề cập, nghiên cứu một cách sâu
sắc dưới nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau. Bảo hiểm xã hội đã xuất hiện
và phát triển cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nhân loại. Theo
Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) thì nước Phổ (nay là Cộng hòa Liên bang
Đức) là nước đầu tiên trên thế giới ban hành chế độ bảo hiểm ốm đau vào năm
1883, đánh dấu sự ra đời của BHXH. Đến nay, hầu hết các nước trên thế giới
Hoàng Minh Thái 7
Chuyên ngành: Kế Toán
Lớp: CDKT01AKhóa Luận Tốt Nghiệp
đã thực hiện chính sách BHXH và coi nó là một trong những chính sách xã hội
quan trọng nhất trong hệ thống chính sách bảo đảm an sinh xã hội.
Tại Việt Nam, trước năm 1945 ở Việt Nam chưa có pháp luật bảo hiểm
xã hội. Bởi vì đất nước bị thực dân Pháp đô hộ. Đời sống của nhân dân vô
cùng cực khổ, nghèo đói. Tuy nhiên nhân dân Việt Nam có truyền thống cưu
mang, giúp đỡ lẫn nhau những khi gặp rủi ro hoạn nạn. Đặc biệt là sự che chở
của họ hàng làng xã thân tộc. Cũng có một số nhà thờ tổ chức nuôi trẻ mồ côi,
thực hiện tế bần (BHXH sơ khai). Tháng 8 năm 1945 Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa ra đời. Tháng 12 năm 1946 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp
đầu tiên của Nhà nước dân chủ nhân dân. Trong Hiến pháp có xác định quyền
được trợ cấp của người tàn tật và người già. Ngày 12 tháng 3 năm 1947 Chủ
tịch nước Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 29/SL quy định chế độ trợ cấp cho công
nhân, sau đó là 2 sắc lệnh 76, 77 quy định thực hiện các chế độ ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, hưu trí cho cán bộ, công nhân viên chức. Đặc điểm của
chính sách pháp luật bảo hiểm xã hội ở thời kỳ này là do trong hoàn cảnh
kháng chiến gian khổ nên việc thực hiện bảo hiểm xã hội rất hạn chế. Tuy
nhiên, đây là thời kỳ đánh dấu sự quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước về
chính sách bảo hiểm xã hội. Đồng thời những quy định về bảo hiểm xã hội của
Nhà nước ở thời kỳ này là cơ sở cho sự phát triển bảo hiểm xã hội sau này. Từ
năm 1954 đến nay, pháp luật về BHXH được phát triển mở rộng nhanh, Điều
lệ BHXH ban hành ngày 27/12/1961 có thể coi là văn bản gốc về BHXH quy
định đối tượng là CNVC Nhà nước, hệ thống 6 chế độ BHXH, quỹ BHXH
nằm trong ngân sách nhà nước do các cơ quan đơn vị đóng góp. Trải qua nhiều
lần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với nền kinh tế xã hội.
Mặc dù đã có quá trình phát triển tương đối dài, nhưng cho đến nay còn
có nhiều khái niệm về BHXH, chưa có khái niệm thống nhất. Bởi lẽ, BHXH là
Hoàng Minh Thái 8
Chuyên ngành: Kế Toán
Lớp: CDKT01AKhóa Luận Tốt Nghiệp
đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác nhau như kinh tế, xã hội,
pháp lý...
1.1.1.3 Quan niệm về bảo hiểm xã hội và bảo hiểm xã hội bắt buộc
Theo từ điển Bách khoa: "BHXH là sự đảm bảo, thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập cho người lao động khi họ mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi
già, tử tuất, dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham
gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm đảm bảo, an toàn
đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an
toàn xã hội" [1]
Công ước 102 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đưa ra khái niệm về
BHXH như sau: “BHXH là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên
của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng, nhằm chống lại những
khó khăn về kinh tế và xã hội dẫn đến việc ngừng hoặc giảm sút đáng kể về thu
nhập gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi
già, và chết; đồng thời bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình
đông con”. Khái niệm này đã phản ánh được sự kết hợp hai mặt của BHXH là
mặt kinh tế và mặt xã hội.
Còn theo khái niệm của BHXH Việt Nam: “BHXH là sự bảo vệ của xã
hội đối với người lao động thông qua việc huy động các nguồn đóng góp để
trợ cấp cho họ, nhằm khắc phục những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị
ngừng hoặc bị giảm thu nhập gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn, thất nghiệp,
mất khả năng lao động, tuổi già và chết.”. [2]
Theo quy định tại Điều 3 Luật Bảo hiểm xã hội: BHXH là sự bảo đảm
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm
Hoàng Minh Thái 9
Chuyên ngành: Kế Toán
Lớp: CDKT01AKhóa Luận Tốt Nghiệp
hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,
thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH.
Như vậy, BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
cho người lao động, khi họ gặp phải biến cố, rủi ro làm suy giảm sức khỏe, mất
khả năng lao động, mất việc làm, chết; gắn liền với quá trình tạo lập một quỹ
tiền tệ tập trung được hình thành bởi các bên tham gia BHXH đóng góp và
việc sử dụng quỹ đó cung cấp tài chính nhằm đảm bảo mức sống cơ bản cho
bản thân người lao động và những người ruột thịt của người lao động trực tiếp
phải nuôi dưỡng, góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Có 2 loại BHXH: bắt buộc và tự nguyện.
BHXH tự nguyện là loại hình BHXH mà đối tượng tham gia hoàn toàn tự
nguyện đóng góp mức phí và thụ hưởng theo quy định.
Bảo hiểm xã hội bắt buộc là gì? Theo quy định tại điều 3 Luật Bảo hiểm
xã hội: Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao
động và người sử dụng lao động bắt buộc phải tham gia.
1.1.2 Đặc điểm và nguyên tắc của bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.1.2.1 Đặc điểm của BHXH bắt buộc
Cùng với quá trình phát triển, tiến bộ của loài người, BHXH bắt buộc
được coi là một chính sách xã hội quan trọng của bất kỳ nhà nước nào, nhằm
bảo đảm an toàn cho sản xuất, cho đời sống vật chất và tinh thần cho mọi
người trong xã hội. Với tư cách là công cụ quan trọng nhất để quản lý xã hội,
nhà nước phải can thiệp và tổ chức bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao
động, đặc biệt là để giải quyết mối quan hệ thuê mướn lao động giữa chủ và
thợ. Yêu cầu giới chủ phải thực hiện những cam kết đảm bảo điều kiện làm
việc và nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần cho giới thợ, trong đó có nhu cầu
về tiền lương, về chăm sóc y tế, về chăm sóc khi bị ốm đau, tai nạn, trả lương
Hoàng Minh Thái 10
Chuyên ngành: Kế Toán
Lớp: CDKT01A