Nội dung text: Luận văn Nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế GTGT các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn Thành phố HuếPHẦN MỞ ĐẦU
1.TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Thuế ra đời và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của Nhà
nước và là một đòi hỏi khách quan đối với sự tồn tại của Nhà nước đó. Do vậy, thuế
là một khoản đóng góp mang tính bắt buộc, cưỡng chế, pháp lý cao, là nguồn thu
chủ yếu cho ngân sách Nhà nước. Trong các đối tượng chịu thuế, kinh tế ngoài quốc
doanh là đối tượng có số thuế phải thu chiếm tỷ trọng cao trong ngân sách Nhà
nước, được xem là thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ và năng động nhất. Song
cũng là thành phần kinh tế đa dạng và phức tạp nhất. Trong 10 năm triển khai áp
dụng thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với thành phần kinh tế này đã nảy sinh không
ít những khó khăn, vướng mắc. Vậy, làm thế nào để luật thuế GTGT thực sự đi vào
cuộc sống, phát huy hết các vai trò, tác dụng và những ưu điểm nổi bật của nó. Vấn
đề quản lý thu thuế GTGT đối với khu vực kinh tế NQD như thế nào? Đó là một
câu hỏi cấp bách đặt ra cần có những giải pháp.
Thành phố Huế là trung tâm của tỉnh Thừa Thiên Huế, thu ngân sách hàng
năm của Thành phố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách của Tỉnh. Trong
đó, khoản thu thuế GTGT của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là một trong những
khoản thu chủ yếu, góp phần quan trọng quyết định hoàn thành nhiệm vụ thu ngân
sách của Thành phố, của Tỉnh.
Công tác quản lý thu thuế GTGT trong những năm qua của Thành phố đã đạt
được nhiều kết quả. Tuy nhiên, một số khâu trong công tác thu thuế GTGT vẫn còn
những điểm hạn chế. Số thu thuế GTGT luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch và có
tốc độ tăng cao, nhưng số thu đó vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của Thành
phố, nhiều nguồn thu chưa được khai thác. Đặc biệt, tình hình thất thu thuế vẫn
đang diễn ra ở một số lĩnh vực như: thương mại, ăn uống, khách sạn, dịch vụ. Tình
trạng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh nhưng không khai thuế, nộp thuế vẫn còn
nhưng chưa có giải pháp hữu hiệu để xử lý; tỷ lệ nợ thuế vẫn còn cao.
Vì thế, để phát huy vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế và huy động nguồn thu
1cho ngân sách Nhà nước, chi cục Thuế Thành phố Huế cần phải có những giải pháp
hết sức thiết thực nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý về công tác thu thuế GTGT, tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động và đảm bảo công bằng giữa các
thành phần kinh tế. Xuất phát từ những vấn đề trên tác giả đã chọn đề tài: “Nâng
cao hiệu quả quản lý thu thuế GTGT các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên
địa bàn thành phố Huế” làm luận văn khoa học của mình.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài: “Nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế GTGT các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh trên địa bàn Thành phố Huế” thực hiện nhằm đạt được những mục đích sau đây:
2.1 Mục đích chung
Đánh giá thực trạng công tác quản lý thu thuế GTGT, đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế GTGT các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh (DN NQD) trên địa bàn Thành phố Huế
2.2 Mục đích cụ thể
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thuế GTGT và công tác quản lý thuế
GTGT các doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo quy trình của Tổng cục Thuế.
- Phân tích đánh giá thực trạng công tác quản lý thu thuế GTGT các doanh
nghiệp NQD trên địa bàn Thành phố Huế.
- Đề xuất định hướng và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
hoạt động thu thuế GTGT các doanh nghiệp ở Chi cục Thuế Thành phố trong thời
gian đến.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1 Nội dung nghiên cứu: Đánh giá công tác quản lý thu thuế GTGT các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn thành phố ở Chi cục Thuế thành phố Huế
3.1 Phạm vi không gian: Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn thành
phố Huế.
3.2 Phạm vi thời gian: Trong thời gian từ năm 2005-2008.
Trọng tâm của vấn đề nghiên cứu chủ yếu là thuế GTGT và các đối tượng
quản lý thu thuế trên địa bàn thành phố. Trên cơ sở phân tích kết quả thu thuế từng
năm chỉ ra ưu, nhược điểm và tác động của chính sách thuế đến số thu ngân sách và
2phát triển kinh tế thực hiện công bằng xã hội giữa các thành phần kinh tế đồng thời
đề xuất những định hướng, giải pháp quản lý khả thi trong thời gian tới.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1 Phương pháp chung
Luận văn vận dụng cách tiếp cận theo phương pháp duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử; vận dụng quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước trong quá trình
đổi mới kinh tế để phân tích thực trạng quản lý và thực hiện chính sách thuế ở địa
phương nghiên cứu. Từ đó rút ra một số nhận xét và kiến nghị đề xuất các giải pháp
để góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các DN
NQD tại Chi cục Thuế thành phố Huế.
Phương pháp tiếp cận: xem xét, nghiên cứu dưới góc độ các quy trình nghiệp
vụ, các văn bản hướng dẫn thực hiện của Nhà nước, trong đó tập trung vào các quy
trình quản lý thuế hiện hành như quy trình quản lý DN, quy trình thanh tra, kiểm
tra...để phân tích, đánh giá nhằm tìm ra những bất cập, mâu thuẫn hoặc những tồn
tại để nhằm đề xuất một số biện pháp có tính khả thi trong tương lai.
4.2 Phương pháp cụ thể
4.2.1 Phương pháp thu thập số liệu
+ Số liệu thứ cấp cần thiết cho đề tài được thu thập từ các nguồn: Cục Thống
kê, Phòng thống kê, các đội kiểm tra thuế, đội kê khai kế toán tin học. Đội cưỡng
chế quản lý và thu nợ thuế thuộc Chi cục Thuế thành phố Huế, niên giám thống kê
của thành phố, các tài liệu kinh tế - xã hội, Internet . Ngoài ra, còn sử dụng các
số liệu từ báo cáo khoa học đã được công bố, các công trình nghiên cứu khoa học
của nhiều tác giả về lĩnh vực liên quan đến đề tài.
+ Số liệu sơ cấp: Được thu thập bằng cách khảo sát phỏng vấn các doanh
nghiệp dựa trên số lượng doanh nghiệp mà Chi cục Thuế đang quản lý và số lượng
cán bộ công chức thuế thuộc Chi cục Thuế thành phố. Cụ thể chọn ngẫu nhiên 73
DN sản xuất kinh doanh trên địa bàn, gồm: 18 công ty cổ phần, 20 công ty TNHH,
325 doanh nghiệp tư nhân, 10 Hợp tác xã và 55 cán bộ công chức (CBCC) thuế để
tiến hành điều tra.
Phương pháp điều tra bằng cách phát phiếu khảo sát đã được thiết kế sẵn, nhằm
đánh giá các quy định về việc kê khai đăng ký thuế, kế toán thuế, mức độ hài lòng của
người nộp thuế và cán bộ công chức thuế về công tác hướng dẫn tuyên truyền hỗ trợ
người nộp thuế, công tác hoàn thuế, kiểm tra thuế tại DN của cơ quan thuế.
Mục đích của việc điều tra là để nắm bắt được những khó khăn, vướng mắc,
những kiến nghị đề xuất của DN cũng như cán bộ công chức thuế trong việc thực
hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế theo Luật quản lý thuế. Bảng hỏi được thiết kế bám
sát theo các nội dung của quy trình quản lý thuế hiện tại và theo đề cương nghiên
cứu, bảng hỏi chủ yếu sử dụng các câu hỏi chọn lựa mà người được phỏng vấn cho
là đúng nhất, có đặt một số câu hỏi đóng và một số câu hỏi mở phục vụ cho việc lấy
ý kiến đề xuất của DN.
Phỏng vấn khảo sát cán bộ công chức thuế thuộc Chi cục thuế thành phố Huế
nhằm thu thập các dữ liệu quan trọng về tính hiệu quả của hệ thống quản lý thuế nói
chung và các chức năng quản lý thuế nói riêng.
Số liệu sơ cấp và số liệu thứ cấp được thu thập và xử lý trên các phần mềm
thông dụng như Micrsoft Excel, SPSS.
4.2.2 Phương pháp phân tích kinh tế
Phương pháp tổng hợp và phân tích thống kê là phương pháp chủ yếu được sử
dụng trong đề tài, cụ thể gồm phân tích các chỉ tiêu tương đối, tuyệt đối và số bình
quân để đánh giá sự biến động của các chỉ tiêu phân tích khi có sự thống nhất về
thời gian, không gian theo một số tiêu thức nhất định..
4.2.3 Phương pháp phân tích ANOVA
Phương pháp phân tích phương sai ANOVA được dùng để kiểm định sự khác
nhau về trị trung bình các ý kiến đánh giá của các loại hình doanh nghiệp với nhau (của
các cán bộ công chức thuế) về công tác quản lý thu thuế GTGT và giữa các loại hình
doanh nghiệp (các cán bộ công chức thuế) với trung bình chung của tổng thể điều tra.
4Giả thiết được sử dụng để kiểm định:
H0 :µ1 = µ2 = µ3 = µ4 - Không có sự khác biệt trong cách đánh giá về công tác
quản lý thu thuế GTGT trong mỗi loại hình DN và từng
loại hình DN với trung bình chung của tổng thể nghiên
cứu.
- Không có sự khác biệt trong cách đánh giá về công tác
quản lý thu thuế GTGT trong mỗi nhóm cán bộ công chức
và giữa các nhóm với trung bình chung của tổng thể
nghiên cứu.
H1 :µ1 ≠ µ2 ≠ µ3 ≠ µ4 - Có sự khác biệt trong cách đánh giá về công tác quản lý
thu thuế GTGT trong mỗi loại hình DN và từng loại hình
DN với trung bình chung của tổng thể nghiên cứu.
- Có sự khác biệt trong cách đánh giá về công tác quản lý
thu thuế GTGT trong mỗi loại nhóm cán bộ công chức và
giữa các nhóm với trung bình chung của tổng thể nghiên
cứu.
4.2.4 Phương pháp sơ đồ để mô tả quy trình quản lý thu thuế giá trị gia tăng.
5PHẦN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ QUẢN LÝ THU THUẾ
GIÁ TRỊ GIA TĂNG
1.1 TỔNG QUAN VỀ THUẾ
1.1.1 Khái niệm về thuế
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra đời là
một tất yếu khách quan, gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước.
Để duy trì sự tồn tại của mình, Nhà nước cần có những nguồn tài chính để chi tiêu,
trước hết là chi cho việc duy trì và củng cố bộ máy cai trị từ Trung ương đến địa
phương thuộc phạm vi lãnh thổ mà Nhà nước đó đang cai quản; chi cho các công
việc thuộc chức năng của Nhà nước như: quốc phòng, an ninh, chi cho xây dựng và
phát triển các cơ sở hạ tầng; chi cho các vấn đề về phúc lợi công cộng, về sự
nghiệp, về xã hội trước mắt và lâu dài[30,20].
Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên, Nhà nước dùng
quyền lực chính trị buộc dân phải đóng góp một phần thu nhập của mình cho Ngân
sách Nhà nước. Đây chính là hình thức cơ bản nhất để huy động tập trung nguồn tài
chính cho Nhà nước. Hình thức đóng góp đó chính là Thuế [30,20].
Như vậy, Thuế luôn luôn gắn chặt với sự ra đời và phát triển của Nhà nước.
Bản chất của Nhà nước quy định bản chất giai cấp của thuế.
Một khái niệm khác về thuế tương đối hoàn chỉnh được nêu lên trong cuốn
“Economics” của hai nhà kinh tế Mỹ K.P.Makkohhell và C.L.Bryu như sau: “Thuế
là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc là chuyển giao bằng hàng hoá,
dịch vụ) của các công ty và các hộ gia đình cho Chính phủ, mà trong sự trao đổi đó
họ không nhận được một cách trực tiếp hàng hoá hoặc dịch vụ nào cả, khoản nộp đó
không phải là tiền phạt mà toà án tuyên phạt do hành vi vi phạm pháp luật”[30,21].
Gần đây trong một số công trình nghiên cứu về thuế các nhà kinh tế cho rằng,
để vạch rõ bản chất của thuế thì trong định nghĩa đó phải nêu bật các khía cạnh sau
đây: nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ giữa Nhà
6nước với các pháp nhân và các thể nhân; những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này
được nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt việc chuyển giao
thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh của Nhà nước xét theo khía cạnh luật
pháp, thuế là một khoản nộp cho Nhà nước được pháp luật quy định theo mức thu
và thời hạn nhất định.
Kết hợp những hạt nhân hợp lý của các quan niệm về thuế kể trên, có thể nêu
lên khái niệm tổng quát về thuế như sau:
Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc từ các thể nhân và pháp
nhân cho Nhà nước theo mức độ và pháp luật quy định. Khoản chuyển giao thu
nhập dưới hình thức thuế để phục vụ cho mục tiêu công cộng. Nguồn thu về thuế
không được sử dụng cho mục tiêu cá nhân[19].
Trong thực tế, ở nước ta hiện nay khi hình thành quỹ tiền tệ tập trung, Nhà
nước thực hiện các chức năng của mình trong đó có chức năng quản lý và xây dựng
kinh tế thông qua việc kiến thiết, xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng và các công
trình phúc lợi xã hội khác thì người nộp thuế thông qua đó đựơc hưởng một phần
kết quả nộp thuế của mình [4]. Như vậy thuế ở nước ta luôn luôn là một khoản thu
bắt buộc, không được hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế nhưng họ được gián
tiếp hưởng lợi do chính sách đầu tư, phát triển của Nhà nước cho các công trình
phúc lợi xã hội khác nhau [30].
1.1.2 Đặc điểm của thuế
Thứ nhất, tính cưỡng chế và tính pháp lý cao
Đặc điểm này được thể chế hóa trong hiến pháp của mỗi quốc gia.Trong các
quốc gia, việc đóng thuế cho Nhà nước được coi là một trong những nghĩa vụ bắt
buộc của các tổ chức kinh tế và công dân cho Nhà nước. Các tổ chức kinh tế và
công dân thực hiện nghĩa vụ thuế theo các Luật thuế cụ thể được cơ quan quyền lực
tối cao ở quốc gia đó quy định phù hợp với các hoạt động và thu nhập của từng tổ
chức kinh tế và công dân. Tổ chức hoặc cá nhân nào không thực hiện nghĩa vụ thuế
của mình, tức là họ đã vi phạm Luật pháp của quốc gia đó[19].
7Đặc điểm này phân biệt sự khác nhau giữa thuế với các khoản đóng góp mang
tính tự nguyện cho NSNN và thuế đối với các khoản vay mượn của Chính phủ.
Tuy nhiên, cũng càn phải hiểu rằng thuế là biện pháp tài chính mang tính chất
bắt buộc của Nhà nước, nhưng sự bắt buộc đó luôn được xác lập dựa trên nền tảng
của các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và quan hệ kinh tế thế giới.
Thứ hai, thuế là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp
Khác với các khoản vay, Nhà nước thu thuế từ các tổ chức kinh tế và các cá
nhân nhưng không phải hoàn trả lại trực tiếp cho người nộp thuế sau một khoảng
thời gian với một khoản tiền mà họ đã nộp vào NSNN. Số tiền thuế thu được, Nhà
nước sẽ sử dụng cho các chi tiêu công cộng, phục vụ cho nhu cầu của Nhà nước và
mỗicá nhân trong xã hội. Mọi cá nhân, người nộp thuế cho Nhà nước cũng như
người không nộp thuế, người nộp nhiều cũng như người nộp ít, đều bình đẳng trong
việc nhận được các phúc lợi công cộng từ phía Nhà nước, được tính toán không dựa
trên khối lượng lợi ích công cộng họ nhận được mà dựa trên những hoạt động cụ thể
và thu nhập của họ. Đặc điểm này cũng phân biệt giữa thuế với phí và lệ phí[19].
1.1.3 Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường
1.1.3.1 Thuế là công cụ tập trung chủ yếu nguồn thu cho Ngân sách Nhà Nước
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội
bộ nền kinh tế quốc dân. Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại các thu
nhập theo đường lối xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đặc biệt trong tình hình
hiện nay, nguồn thu từ nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chịu sức ép của
quan hệ “mua bán sòng phẳng”,“có vay, có trả”, thuế phải là công cụ quan trọng
góp phần tích cực giảm bội chi Ngân sách, giảm lạm phát, ổn định kinh tế - xã hội,
chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển đất nước lâu dài. Thuế phải trở
thành nguồn thu chủ yếu, bộ phận cơ bản của nền tài chính quốc gia lành mạnh. Với
nền kinh tế nhiều thành phần, hệ thống thuế được áp dụng thống nhất giữa các thành
phần kinh tế. Thuế phải bao quát được hầu hết các hoạt động kinh doanh, các nguồn
thu nhập trong xã hội [9].
Mục tiêu của Quốc hội đề ra trong những năm tới là động viên về thuế chiếm
8khoảng 20 đến 25% GDP và ổn định mức đóng góp về thuế. Mức động viên trên
đây là phù hợp với khả năng kinh tế, phù hợp với sức đóng góp của nhân dân, bảo
đảm phần lớn các nhu cầu chi tiêu của Ngân sách nhà nước, nguồn vốn để xây dựng
cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế theo hướng có lợi cho đất nước. Nhà nước ta luôn
coi thuế là nguồn thu chủ yếu và quan trọng nhất của Ngân sách nhà nước[1].
1.1.3.2 Thuế tham gia vào việc điều tiết kinh tế vĩ mô
Thông qua việc xây dựng đúng đắn cơ cấu và mối quan hệ giữa các sắc thuế,
việc xác định hợp lý người nộp thuế, đối tượng đánh thuế, thuế suất, chế độ miễn
giảm, phương pháp quản lý thu thuế dựa trên cơ sở hạch toán kế toán đầy đủ, chính
xác, thuế là công cụ điều tiết đối với thu nhập của các tầng lớp xã hội thể hiện trên
hai mặt: khuyến khích, nâng đỡ những hoạt động kinh doanh cần thiết làm ăn có
hiệu quả; đồng thời thu hẹp, kìm hãm những ngành nghề, mặt hàng cần hạn chế sản
xuất, hạn chế tiêu dùng theo hướng tiết kiệm, chống lãng phí. Thuế còn khuyến
khích việc bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất, khuyến khích các cơ sở kinh doanh
thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật. Thuế góp phần
khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong việc tranh thủ vốn hợp tác của
nước ngoài để phát triển kinh tế hàng hoá, không ngừng nâng cao khả năng tích luỹ,
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, bảo vệ sản xuất trong nước. Thuế thúc đẩy
mở rộng thị trường một cách lành mạnh, vừa khuyến khích giao lưu hàng hoá, vừa
đấu tranh hạn chế mua bán lòng vòng qua nhiều khâu trung gian, đầu cơ tích trữ để
hưởng chênh lệch giá[19].
1.1.3.3 Thuế là công cụ để điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong
phân phối
Hệ thống thuế được áp dụng thống nhất giữa các ngành nghề, các thành phần
kinh tế, các tầng lớp dân cư theo nguyên tắc đảm bảo công bằng và bình đẳng trong
làm nghĩa vụ và quyền lợi. Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua
chính sách động viên giống nhau (thuế suất) giữa các tổ chức và cá nhân thuộc mọi
thành phần kinh tế cùng hoạt động trong một lĩnh vực, bảo đảm sự công bằng và
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ với mọi công dân, không có những đặc quyền,
đặc lợi cho bất cứ đối tượng nào. Thuế kích thích mọi công dân, doanh nghiệp cải
9tiến kỹ thuật, đầu tư vốn, đầu tư chất xám, làm ăn giỏi và có thu nhập cao một cách
chính đáng [4].
1.1.3.4 Thuế còn là công cụ để kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh
Vai trò này được xuất hiện chính do quá trình tổ chức thực hiện thuế trong
thực tế. Để thu được thuế và thực hiện đúng các Luật thuế đã được ban hành, cơ
quan thuế và các cơ quan liên quan phải bằng mọi biện pháp nắm vững số lượng,
quy mô các cơ sở sản xuất kinh doanh, ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh, mặt
hàng họ được phép kinh doanh. Từ công tác thu thuế mà cơ quan thuế sẽ phát hiện
những việc làm sai trái, vi phạm Luật của các cá nhân, các đơn vị sản xuất kinh
doanh, hoặc phát hiện ra những khó khăn mà họ gặp phải để giúp đỡ họ tìm biện
pháp tháo gỡ. Như vậy, do công tác quản lý thu thuế mà có thể kết hợp kiểm tra,
kiểm soát toàn diện các mặt hàng, hoạt động của các cơ sở kinh tế đảm bảo thực
hiện tốt quản lý Nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội[19].
1.1.4 Bản chất, chức năng của thuế
1.1.4.1 Bản chất của thuế
Thuế là một phạm trù kinh tế đồng thời cũng là một phạm trù lịch sử, thuế
luôn luôn gắn chặt với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước.
Thuế là một công cụ tài chính của Nhà nước, được sử dụng để hình thành nên
quỹ tiền tệ tập trung nhằm sử dụng cho mục đích công cộng.
Bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong, vốn có của thuế.
Những đặc điểm đó là :
Thuế luôn luôn gắn liền với quyền lực Nhà nước. Thuế là nghĩa vụ cơ bản của
công dân đã được quy định trong Hiến Pháp; thuế là một phần thu nhập của các
tầng lớp dân cư bắt buộc phải nộp cho Nhà nước; thuế là một hình thức chuyển giao
thu nhập không mang tính chất hoàn trả trực tiếp [1].
Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước
thu thuế cũng là nhằm tạo ra một nguồn lực tập trung để chi phát triển cơ sở hạ
tầng, chi phúc lợi công cộng, chi văn hóa, giáo dục y tế, xã hội, an ninh, quốc
phòng Hiến pháp nước ta năm 1992, Điều 80 đã ghi rõ: “Công dân có nghĩa vụ
10